QUYỀN
CỦA LỬA
Kịch một cảnh ba
màn
Nhân Vật:
(Theo thứ tự xuất hiện)
Kiệt: 42 tuổi, hành khất
"cách mạng"
Tuấn: 45 tuổi, hành khất
"ngụy"
Ba Thừa: 73 tuổi, tướng
hưu
Nam Kha: 25 tuổi, cháu nội
Ba Thừa
Hồng: 24 tuổi, con gái
tổ trưởng tổ dân phố
Phấn: 22 tuổi, chủ quán
nước bên đường
Kỳ: 30 tuổi, công an khu
vực, con trai tổ trưởng dân phố
Nhiễu: 16 tuổi, con trai
Cơ
Cơ: 51 tuổi, giám
thị cải huấn, em tổ trưởng tổ dân phố
Nhân: 50 tuổi, đạp xích
lô
Sách: 58 tuổi, giáo sư
bỏ dạy, buôn vặt
Tư Diện: 42 tuổi, ký giả
chuyển nghề phụ diễn gánh hát
Bích: 55 tuổi, tổ trưởng
tổ dân phố, chủ hiệu phở
Vài nhân vật không tên
Hai công an quận
-------
Thời gian: Một ngày chủ
nhật.
Không gian: Cảnh một đoạn
đường Cách Mạng Tháng Tám.
Cánh phải sân khấu là hiệu
phở nằm ngay đầu con ngõ. Tiếng nhạc. Khách thưa thớt vào
ra.
Phía trong con ngõ nhà cửa chen
chúc, nổi vượt lên là tháp một thánh đường nhỏ, hậu
quả những vụ nhà cửa bao vây xâm lấn vô trật tự kéo
dài hai mươi năm.
Giữa sân khấu là quán nước
lề đường nằm dưới gốc điệp. Một phụ nữ khuân vài
bàn ghế sơ sài tới bỏ đó, rồi tất bật bước đi.
Cánh trái sân khấu là đuôi một
đống rác dài bò tới gần Ban Chữa Lửa Phường, cửa đóng
im ỉm; phía trước, dưới mấy gốc trứng cá đặt một phuy
sơn đỏ trầy tróc đựng cát, vài chiếc sô móp méo, dăm
câu liêm dựng vạ vật.
Màn Một
(Giữa trưa. Nắng chói chang. Ô nhiễm.
Dưới gốc điệp một anh phu xích lô đạp mặt phủ tờ báo
ngủ ngay trên xe, kế bên có ông già câm điếc vá lốp ngồi
chờ khách. Vài đứa trẻ vác súng cao su lùng chim sẻ đi qua,
chửi tục như máy.
Hai gã ăn mày cụt chân - nhân dáng
y phục tươm đúng tiêu chuẩn ăn mày "ta"- ngồi sát tường
hiệu phở vừa tránh nắng vừa ơ hờ chờ đợi. Nhìn bàng
quan người ta có thể gọi họ là "lão", văn vẻ hơn "trưởng
lão cái bang". Thực họ chưa già đến thế, tuổi mới đủ
chín để có thể đặt những phản cung về các lời khai,
nếu có, của những công dân hạnh phúc mới trong một xã
hội đã thấm bài kinh tế thị trường nửa mùa.
Một người tên Tuấn, người kia
Kiệt.
Có con chó bông béo phị chạy tới
ghếch chân. Ướt lưng, Kiệt vùng lên, la hoảng, tay quơ gậy.
Con chó chạy tấp vào mấy thùng rác sau hiệu phở.)
Kiệt: (than lớn) Chó đái
lưng người, thật hết nước nói!
Tuấn: Thêm vài giọt vào một đống
phân, đáng gì mà toắng lên!
Kiệt: Tiên sư nó, điên tiết thế
nào cũng có ngày tớ bã nó, tớ riềng mẻ nó.
Tuấn: (xoa đầu gối cụt nhẵn)
Cha tổ trưởng tổ dân phố kiêm tư bản nhà tư bản phở,
con trai công an khu vực, con gái cành vàng lá ngọc một bước
thành bà lớn như chơi, nổi nóng đánh chó nhà quyền quý
có nguy cơ cậu ăn riềng mẻ trước.
Kiệt: Thế ra tớ không được nóng
cả với chó?
Tuấn: Còn phải hỏi.
Kiệt: Cậu cứ nói thẳng đi.
Tuấn: Lạ, cậu có thói ăn luôn
thiếu hỏi luôn thừa.
Kiệt: Hừ, ra thế, mình không còn
cả quyền nổi nóng với chó!
Tuấn: Cậu quên tiệt rồi. Cậu
không hay bảo thang giá trị xã hội ta chỉ dành chỗ bám cho
hạng sinh vật còn sản xuất? Nhắc để cậu nhớ mình đang
ở nấc nào trước khi nổi nóng.
Kiệt: Nhưng bản tính tớ nóng,
nóng là nóng, cần chó gì tự hỏi với không tự hỏi.
Tuấn: Lại còn cái bản tính nóng
ấy nữa!
Kiệt: Lạ lắm?
Tuấn: Không, nhưng...
Kiệt: Sao?
Tuấn: Từ lâu tớ vẫn đinh ninh
ăn cái tát thứ hai nổ đom đóm mắt của đời thằng chó
nào cũng tắt ngấm cái nóng ấy từ khuya. Tớ không tin cái
nóng sống dai trong bản tính. Tớ ngờ nó tồn tại do ý thức
quyền lực.
Kiệt: Chết không chừa tật lý
sự cùn!
Tuấn: Lý sự với cậu ăn cái giải
rút gì, là kinh qua thực tế thấy thế, nói thế. Nổi nóng
là phương tiện trưng diện tích cực phải có của kẻ vốn
sở hữu thế ưu thắng nào đó trong các mặt đời sống,
thường luân lưu theo chiều dọc, trên xuống.
Kiệt: Nói nghe chướng tai!
Tuấn: Hôn quân gõ vương quyền
trên đầu tham quan, tham quan gõ quan quyền trên đầu sai nha,
sai nha quật cái ruột tượng trên đầu dân đen, dân đen về
vét túi vợ, vợ dân đen tức bụng gõ guốc trên đầu con
chó lục niêu, con chó ức ra đái trên lưng thằng ăn mày.
Kiệt: Thế thằng ăn mày?
Tuấn: Quật bị rách bị.
Kiệt: Nhục!
Tuấn: Còn tính mặc áo gấm hoa
nữa đấy! (chuông nhà thờ, Tuấn nhìn vào ngõ, rủ bạn)
Ði thôi, lễ hai tan rồi. Hy vọng.
Kiệt: (lết theo bạn) Bảo
lên bến tàu không lên, đến ăn chực chuột nhà thờ thì
bõ bèn gì! (đùa lớn tiếng với ông già câm) Ðồng
chí vá lốp ơi, giữ hộ tuyến này nhá, chớ để con chuột
nào thoát thân, dù con chuột nghèo nhất!
(Tuấn và Kiệt khuất trong ngõ.
Ba Thừa mặc bộ bà ba nâu khá mới, đi dép nhật, bàn tay
phải đeo găng trắng đã ngả cháo lòng, râu dài, mặt vuông,
khá hồng hào, chỉ mắt trái không nháy. Nam Kha mặc quần
tây xanh, áo sơ mi trắng, đeo kính cận nặng, đi giầy da đánh
bóng. Ba Thừa dẫn xe đạp, Nam Kha đi kế bên. Người vá lốp
nhanh chóng lúi húi làm việc. Ba Thừa vào ngồi chỗ bàn ghế
kê sẵn, nhìn lung ra đường. Nam Kha đến trước hiệu phở,
dáo dác như tìm một người. Quay lại ngồi bên cạnh Ba Thừa.)
Ba Thừa: Hình như cháu muốn tìm
ai?
Nam Kha: Từ hôm ông vào cháu bận
quá, chưa kịp giới thiệu ông một người quen.
Ba Thừa: Chắc phải là một cô
bạn gái xinh xắn?
Nam Kha: Dạ... là con ông chủ hiệu
phở. Ông cũng là tổ trưởng tổ dân phố ta. Cháu tính vận
động nhờ cô giúp nhanh cho ông cái hộ khẩu.
Ba Thừa: Cũng chưa gấp gì. Cháu
cứ từ từ.
(nhìn chiếc xe) Chắc phải thay cái lốp
mới. Nom chiếc xe còn tốt.
Nam Kha: Cháu mới thay đâu ba bốn
tháng nay chứ mấy. Chưa gì đã tã. (nhìn ra đường ổ
gà, ngẫm nghĩ) Thế này thì vấn đề là phải thay con
đường chứ không phải cái lốp nữa, ông ạ.
Ba Thừa: (sực nhớ) Mấy giờ
cháu mới họp?
Nam Kha: Dạ ba giờ. Có anh bạn sẽ
ghé qua đón. Ðỡ xăng.
Ba Thừa: Họp gì mà nhóm muộn thế?
Nam Kha: Các ông thành uỷ còn nhiều
vấn đề quan trọng.
Ba Thừa: Hơn cả văn hoá?
Nam Kha: Ông biết! (chắt lưỡi)
Nhưng không sao. Ngày nay kẻ bị coi rẻ là kẻ thoải mái.
Ba Thừa: Thoải mái? Cháu bảo thế
nào là thoải mái?
Nam Kha: Dạ thì bụng bịu chân tay
tương đối được thả lỏng. Hạng cơ quan nghiên cứu các
vấn đề văn hóa dân tộc như chúng cháu giờ người ta chỉ
còn quan tâm kiểm soát từ cổ trở lên thôi.
Ba Thừa: (nhăn mặt) Còn trẻ,
chua chát làm gì! (tay trái mân mê bàn tay phải đeo găng,
nói xa xôi) Thời trẻ còn đủ hai tay, lạ, ông từng ước
mình có ba tay, bốn tay. Ðể làm gì? Hoá ra đó chỉ là tiếng
đòi hỏi tham lam của lý tưởng. Giờ thế này, tuổi lại
xế chiều, ông chỉ ước sao mình đừng mất gì thêm nữa.
Một nửa người bình thường vẫn hơn không còn là người.
Nam Kha: (cười cay đắng) Thế
không đầu có đáng gọi một nửa người bình thường không
ông? Anh thiết kế cái này, anh cải tạo cái kia, chị chấn
chỉnh chuyện nọ, chị bỏ đi làm lại chuyện đó. Ðấy
là mệnh lệnh, những mệnh lệnh ban ra từ một cái đầu
to tướng nhưng không hề biết cái này, cái kia, chuyện nọ,
chuyện đó là cái chi chi. Biết bao đồng sự của cháu đã
lặng lẽ đổi từ nổi giận sang thoải mái. Họ hoàn tất
nhiệm vụ như bầy quái vật không đầu vì thừa biết những
mệnh lệnh như thế không sớm ắt chầy sẽ được lập lại.
Họ lôi những chồng biên bản khỏi ngăn kéo, xào nấu lại
những tim óc, phương án, đề nghị, cho dẫu là cấp quốc
sách để có được một biên bản mới cho một ngăn kéo mới.
Ba Thừa: (thở dài)
Ông hiểu,
ông hiểu thế nào là tuổi trẻ và cơn sốt nhiệt huyết.
Nhìn đời có một mắt ông đã thừa khổ tâm.
Nam Kha: (ngẫm nghĩ, an ủi)
Ông đã hoàn tất nhiệm vụ. Ông có quyền hưu dưỡng.
Ba Thừa: Làm sao gọi là hưu dưỡng
khi lòng vẫn ray rứt, vẫn thấy đời mình như chưa dứt điểm
một việc gì?
Nam Kha: (thăm dò) Nếu cháu
không đoán sai, ông cũng có tâm sự gì... chua chát lắm?
Ba Thừa: À không, không hẳn vậy.
Không đến nỗi gọi là chua chát. Nhưng cháu hỏi thế nghĩa
là sao?
Nam Kha: Một đời cách mạng chưa
hoàn tất, hoặc đã... hỏng sự?
Ba Thừa: (cười khỏa lấp)
Nhảm. Ông không có ý ấy. Triết lý của ông thế nào? Chuyện
qua rồi dẫu không ưng bụng ta đừng coi hỏng sự. Ông hay
tìm cái điểm mạnh ắt có ở nó để mà, để mà...
Nam Kha: Tự an ủi? (lặng)
Ông ạ, cháu muốn ông nói thật điều này, ông nói thật
nhá!
Ba Thừa: (cười khẽ) Ðẻ
ra bố mày lại đi nói dối mày à?
Nam Kha: Cháu biết ông xứng đáng
hưu, nhưng có bao giờ ông còn mơ ước được làm lại?
Ba Thừa: Làm gì?
Nam Kha: Thì giá như không tìm ra
điểm mạnh nào như ông nói, tình hình lại đòi phải có
một cuộc cách mạng khác, rốt ráo và toàn diện...
Ba Thừa: (nhìn quanh, nhăn trán)
Im! Nhảm!
(Người vá lốp ra dấu tay gọi
Nam Kha. Nam Kha bước đến. Ông ta chỉ ruột xe giơ năm ngón
tay. Nam Kha ngẫm nghĩ, gật đầu, quay lại chỗ ngồi.)
Nam Kha: (cười) Cái ruột nhảm
hơn ông ạ. Thủng gì mà thủng... Mà sao ông từ chối trả
lời cháu? (nhìn quanh) Nóng quá! Sao hôm nay cô Phấn mở
quán muộn thế này, chưa có gì cho ông tôi uống. Hay mình
vào hiệu phở?
Ba Thừa: Thôi, tốn tiền. (nhìn
cháu) Tội nghiệp, mới đó cháu mồ côi cha đã hai mươi
năm. Khốn khổ là cái xứ Miên. Mẹ cháu nữa, giờ không
biết làm dâu nhà nào. Cháu hỏi tự dưng làm ông nhớ đến
bố cháu quá. Hừ, nó cũng hay có lối hỏi chết người như
thế. Rức đầu!
Nam Kha: Ông không trả lời, cháu
cam đoan ông còn rức đầu nhiều nữa!
Ba Thừa: (mắng yêu) Bố mày,
thằng bất mãn. Sinh sự sự sinh chỉ khổ vào thân con ạ.
Mà ông giấu cháu làm gì. Ðấy cháu thấy, đảng, kháng chiến,
giải phóng, rồi... (ngập ngừng) xét loại.
Nam Kha: Xét loại! Hừ, có phải
là... là thanh trừng, là đồng chí đánh đuổi đồng chí,
là cục muối cắn tư cục đường nuốt cả phải không ông?
Ba Thừa: Mày... Thì thế đấy, mà
đời người hỏi được bao lăm, trải từng nấy thứ chưa
chết cũng tóe phở ra, còn hơi sức nào mà tơ tưởng chuyện
làm lại với không làm lại.
(Lặng lâu)
Nam Kha: Cháu hiểu. Chẳng ai vươn
dài hơn tầm tay mình!
Ba Thừa: (cười cảm kích)
Nhưng ông vẫn hy vọng.
Nam Kha: Hy vọng? Ông hy vọng gì?
Ba Thừa: Hy vọng ở các cháu.
Nam Kha: Một thế hệ có cái đầu
niêm phong? Một thế hệ chỉ được phép trố mắt nhìn?
(Sân khấu ầm lên. Một toán
công an sắc phục đuổi một toán thanh niên chạy băng qua.
Có tiếng hò hét "Bắt nó!", "Bắn nó!". Súng nổ lốp bốp.)
Ba Thừa: Ăn cắp à?
Nam Kha: Có cả ăn cướp ông ạ.
Ăn cướp đuổi giết ăn cắp. Chuyện thường tình thường
ngày.
(Ba Thừa khẽ lắc đầu. Lặng
lâu.)
Nam Kha: (đột ngột) Cháu lại
hỏi thật ông điều này nữa nhá!
Ba Thừa: Sao cậu lắm chuyện thế?
Nam Kha: Không, cháu không hỏi để
chơi, cháu hỏi để có thêm xương thịt cho bài tham luận
của cháu.
Ba Thừa: Ừ, thì nói ông nghe.
Nam Kha: Làm sao để có niềm tin?
Ba Thừa: (ngẫm nghĩ) Hãy đọc
sử.
Nam Kha: Cháu vẫn đọc sử.
Ba Thừa: Cháu đọc thế nào?
Nam Kha: Với niềm kiêu hãnh... vâng,
cháu cố đọc theo chiều hướng ấy.
Ba Thừa: Vậy đủ chưa? Phải cả
với nước mắt nữa, cháu ạ.
Nam Kha: (đứng lên nhìn ra đường
phố, bất ngờ quay lại hỏi) Ông, có thật ông là... một
người cộng sản?
Ba Thừa: (cắn môi, nghĩ lâu)
Bố cháu đã hỏi ông câu ấy. Chính ông cũng tự hỏi ông
câu ấy. Và ông đoán thế nào cũng có ngày cháu hỏi ông
câu ấy.
Nam Kha: (quỳ xuống, hai tay đặt
trên đùi Ba Thừa) Chắc hôm nay cháu có câu trả lời?
(Ba Thừa ngước nhìn tàn cây
có tiếng sẻ non lạc loài. Thốt nhiên một bầy quạ bay qua,
kêu inh ỏi. Ba Thừa vỗ nhẹ trên vai Nam Kha.)
Ba Thừa: Trước khi trả lời, ông
cũng muốn hỏi cháu một câu.
Nam Kha: Vâng.
Ba Thừa: Giá như để cứu bầy
sẻ phải giết hết bầy quạ, cháu nghĩ sao?
Nam Kha: Hoá ra ở bầy quạ không
có điểm mạnh nào?
Ba Thừa: (nhăn trán) Cứ đáp
đi, cháu nghĩ sao?
Nam Kha: Cháu không nghĩ sao cả, vì
vấn đề là cháu không thích dính máu, và cháu không bao giờ
muốn tay cháu dính máu!
Ba Thừa: (nắm hai tay Nam Kha, cùng
đứng lên, giọng nghiêm hẳn) Thế máu dính tay cháu thì
sao? Nhớ, cách nào đó, chưa kiên định thái độ thì khoan
nghĩ cách mạng, ngược lại không là kẻ mộng du cũng là
kẻ tự tử. (nhìn người sửa xe cắm cúi làm việc, giọng
vẫn nghiêm) Còn đây là câu trả lời của ông. (chắt
lưỡi) Tiếc bác vá lốp điếc tai để không cùng nghe
với cháu. Ừ, đã bao đêm ông tự hỏi phải chăng đất nước
mình thừa hạnh phúc, trời phải đẻ ra một thế hệ như
thế hệ ông để nó được nếm mùi tai hoạ?
(Một người đàn ông trạc ngũ
tuần lặc liễng vác dao đuổi theo một người đàn bà tứ
tuần và một thanh niên ngoài đôi mươi. Người đàn bà và
thanh niên tay ôm quần áo, gần như trần truồng, băng ngang
sân khấu nhanh như đoạn phim câm ngắn.)
Ba Thừa: (ngơ ngác) Chuyện
gì nữa thế?
Nam Kha: (ngán ngẩm) Chị ấy
cháu biết. Mới bỏ dạy trên Nguyễn thị Minh Khai mấy tháng
nay. Ông vác dao là chồng. Thương binh. Con một đàn.
Ba Thừa: Nhưng sao lại có cái cảnh
tượng kinh thế?
Nam Kha: (thở dài) Miếng cơm
và đạo lý, không biết rồi ai thắng ai!
Ba Thừa: Ðuổi giết nhau mà lặng
như tờ, thật đời ông chưa từng thấy!
Nam Kha: (nói xa xôi) Chắc vì
họ còn biết thế nào là nhục ông ạ.
Ba Thừa: Thế này thì khác gì ngoài
thủ đô!
Nam Kha: Vâng, mặt này thì đất
nước ta đã thống nhất từ lâu!
Ba Thừa: Cháu phải chạy báo công
an.
Nam Kha: Cháu có cần chạy theo báo
với gã thanh niên? Hắn là công an đấy.
Ba Thừa: Sợ có án mạng mất!
Nam Kha: (đứng dậy, bâng khuâng
nhìn lên tấm biển Ban Chữa Lửa Phường) Ông ơi, chính
đó là điều đã nung nấu cháu từ ngày tốt nghiệp nhận
việc: Làm sao dập tắt đám cháy phát từ ngay giữa lòng sở
Cứu Hỏa!?
(Một người cỡi xe gắn máy
ghé đến. Nam Kha nhận ra bạn, vội bước tới dúi tiền vào
tay người sửa xe, nói nhanh với Ba Thừa.)
Nam Kha: Cháu phải đi. Nắng quá
ông đừng đạp xe. Ông về nhà nghỉ, mát trời hẵng hay.
Chiều nay có họp khu phố, cháu cố về sớm.
Ba Thừa: Ðừng vội, ông đi thế
cho. Nhân tiện làm quen bà con. Thế bài tham luận cháu đâu?
Nam Kha: (nhẹ vỗ bụng) Cháu
nhốt cả trong đây rồi. Chiều nay nhất quyết cháu sẽ nói
lớn tiếng nói của con người.
Ba Thừa: (ngẫm nghĩ, dặn dò)
Dù sao họp hành nên tạo không khí điều đình thuyết phục.
Nam Kha: (cười) Kẻ thua mới
điều đình thuyết phục, cháu chưa thua! (leo ngồi trên
xe gắn máy sau lưng bạn, xe chậm lăn bánh.)
Ba Thừa: (đứng nhìn trời đất
tư lự lúc lâu, tự nói) Nó không biết nó là ta nửa thế
kỷ trước! (thở dài) Cháu ơi cháu quyết chống lại
bản năng con người, nhưng cháu có biết hay không bạo lực
guồng máy vẫn là tên vệ binh ác hiểm ngoan cường của nó!?
(Người sửa xe ra dấu hoàn tất.
Ba Thừa vừa thong thả dẫn bộ vào cánh gà, vừa cảm khái
ngâm thơ. Loa phóng lớn rồi nhỏ dần hai đoạn thơ của Thái
Dịch.)
...
Lòng sống chết buồn vui bừng nổi
dậy
Thoắt lăm le như giục người chọn
lấy
Năm nghìn năm làn máu bén dạt dào
Sóng lớp lớp rượu ba tuần thủa
ấy
Tiếng vang vang như thần kêu quỷ
hét
Trời ngập ngập như quân khiêu
tướng thét
Gọi quá khứ vị lai những u hồn
Muôn nghìn đời linh thiêng không
sống chết
Muôn nghìn đời linh thiêng không
sống chết
...
(Tuấn và Kiệt từ trong ngõ lết
ra.)
Kiệt: (nhìn về hướng Ba Thừa)
Lạ, ai nom giống thủ trưởng Ba Thừa. Giống cả cái giọng
ngâm.
Tuấn: Ba Thừa là ai?
Kiệt: (lẩm bẩm) Mà bệ rạc
quá... chắc không phải...
(quay lại với Tuấn) À...à...
là chính ủy sư tớ thời giải phóng Sài Gòn. Lạ, có đứa
bảo đã nảy sao, có đứa lại bảo từ dạo Campuchea về
đi tướt sớm. Cậu thấy có phải ông ấy không?
Tuấn: Ơ, quên lý lịch tớ thật
đấy chứ?
Kiệt: Ừ quên, cậu ngụy; (bần
thần một lát) mà này, cậu với tớ đồng tồn tại trong
hoà bình từ bao giờ nhỉ?
Tuấn: Từ buổi chúng mình lần
lượt bị huỷ.
Kiệt: (bâng khuâng) Tuấn,
có bao giờ cậu tự hỏi vì sao chúng mình bị huỷ tàn nhẫn?
Tuấn: Không, tớ không tự hỏi
bao giờ, kể từ ngày ấy.
Kiệt: Ngày nào?
Tuấn: Ngày tớ hiểu ra người lính
chỉ là một sản phẩm. Người ta tạo được sản phẩm thì
huỷ được sản phẩm.
Kiệt: (lặng) Ngày ấy chúng
mình còn chí chóe giết nhau. Mới đó hai mươi năm.
Tuấn: Vì lẽ phải, vạn nhất.
Kiệt: Chắc tớ khác đấy!
Tuấn: Cậu tự hiểu.
Kiệt: Hừ!
Tuấn: (ngẫm nghĩ) Này!
Kiệt: Gì?
Tuấn: Có thật cậu tin tự ái làm
tăng thể giá con người?
Kiệt: Ý gì đây?
Tuấn: Các cậu mặc cảm chuyện
trao gươm nhầm tướng cướp! Ðừng nếu đã. Giá có Bao Công
ông ta sẽ phán đó không phải cái tội, chỉ là cái lỗi,
dù cái lỗi chết người.
Kiệt: Ðây đếch mặc cảm tội
lỗi gì sất!
Tuấn: Chớ nói với chính cậu câu
đó, hóc đấy! Nhìn lại cậu đi, thân tàn ma dại đến thế
chưa đủ minh thị xác nhận hậu quả một cái lỗi chết
người? (thở dài) Mà xét cho cùng chính tớ cũng bị
lừa. Lẽ phải không biện minh nổi cho thảm kịch. (đổi
giọng khuyến khích) Mà thôi, cậu bò theo coi đúng cố
nhân không, đúng, trình diện xem có được gia ân tí chi chăng?
Kiệt: (giọng khinh bạc) Nhục!
(Lặng lâu)
Tuấn: (nhìn sâu vào mắt bạn)
Cậu sợ?
Kiệt: Cái gì?
Tuấn: Tớ có cảm tưởng cậu sợ.
Kiệt: Sợ cái gì?
Tuấn: Có, cậu sợ, sợ rõ ràng.
Một cái sợ sâu thẳm. Cậu biểu lộ nhưng với chó cậu
sẽ không dám ra tay, và với người cậu sẽ ngại đối mặt.
Ðại khái thế.
Kiệt: (khó chịu) Ðã bảo
tớ còn cái đếch gì mà sợ!
Tuấn: Ðêm thâu, biển động, tàu
chìm, không tín hiệu cấp cứu, thấy thuyền trưởng còn sống
người thuỷ thủ vẫn đỡ run.
Kiệt: Dễ cậu khác?
Tuấn: Khác, hai mươi năm chớp bể
mưa nguồn, một ghe một chèo, đến khái niệm tì tựa tinh
thần cũng không còn.
Kiệt: Thôi đừng lý sự nữa, ngứa
tai lắm!
Tuấn: Riêng cậu trong tâm tưởng
vẫn bị ám ảnh còn một thuyền trưởng đâu đó, như ông
kia chẳng hạn, dù có thể ông ấy đã xóng xoài như một
thây ma.
Kiệt: (cáu) À, thế ra cậu
muốn tớ đê tiện hơn. Rồi, tớ sẽ đê tiện hơn. Tớ sẽ
đến bấu vào cái thây ông thuyền trưởng của tớ (vơ
chiếc mũ rách dợm bò tới.)
Tuấn: (giữ lấy bạn) Ðùa
đấy. Nhưng đừng sợ nếu lỡ sợ. Dẹp được sợ hãi
mới mong hiển thánh.
Kiệt: Nghe mà kinh. Cứ làm như tử
đạo gì đó đến nơi.
Tuấn: Biết đâu! Chân lý lắm khi
cũng nghèo túng, cũng cần đến sự tử đạo thậm chí của
tên ăn mày! (đốt thuốc, rít một hơi, trao cho Kiệt)
Thôi hút đi, giữ cho tớ hơi sau cùng.
(Lặng lâu)
Kiệt: (nhả khói, giọng vui trở
lại) Mà này, hỏi thật có khi nào cậu để ý tướng
nước ta?
Tuấn: Tướng nước ta là tướng
nào, tướng Ðinh Lê Lý Trần hay tướng nay, tướng cậu hay
tướng tớ?
Kiệt: Tướng xưa không thông, tướng
cậu không thấy, nói thế quái nào được, nói là nói tướng
tớ kìa.
Tuấn: Ờ thì tướng cậu, sao?
Kiệt: Sống dai thần tình!
Tuấn: Cũng chết khối.
Kiệt: Là nói đa số, chứ tranh
xương cắn chết nhau nói làm đếch gì.
Tuấn: Chắc không có khiếu dùng
chữ nhục vớ vẩn của cậu; mà thế, chà, lấy cớ gì cho
cái nhân trung nó teo tóp lại? Dù sao họ có ích cho họ tuy
không có ích cho ai.
Kiệt: Nếu là ông ấy, nom thế
kia chắc đã vô ích cho chính bản thân. Thiếu thể thống
quá!
Tuấn: (cười) Thể thống
à? Phải ý cậu là chuyện tiền hô hậu ủng, chuyện chiếc
ghế bành, bộ đại cán gắn đỏ huân chương, hiếu hỉ đến
nói tiếng tây tíu tít ở nhà quốc khách? Hoặc dán dép râu
vào chân, dán nón cối vào đầu, tay giơ cao thẻ đảng hô
hoán khẩu hiệu trên một khán đài danh dự? Khác hết rồi
cậu ơi! Thời nay thể thống gọn lắm. Nó có thể rúc trong
nịt vú những chị em ta, chui trong bụng béo những bà mệnh
phụ, ngủ im ỉm trong tủ sắt những nhà lãnh đạo... Ðó,
nó đó, có nó sẽ tha hồ nghe những lời tán tụng chân thành:
Ôi, thể thống!
Kiệt: (khoa tay) Thôi thôi,
đứa nào thể thống hay không thể thống mặc xác nó. Rức
đầu quá!
Tuấn: Tưởng tớ thối đến vẽ
chuyện đi bênh cái ông thuyền trưởng mất thể thống của
cậu? Chẳng qua chủ quan tớ thấy nhân cách và thể thống
không hề có tính nhân quả. Và mình sẽ biết ngay một kẻ
thế nào khi họ thò tay chọn một trong hai thứ đó!
Kiệt: (chịu đựng) Nếu ở
hoàn cảnh tớ cậu tính sao?
Tuấn: Hoàn cảnh gì?
Kiệt: Thì gặp lại một thủ trưởng
cũ, (chỉ tay) đại loại thế kia.
Tuấn: Cậu nói chuyện kiếp sau?
Kiệt: Thì cứ giả dụ thế đi!
Tuấn: Chắc phải hơi dài dòng.
Kiệt: Hừ, bệnh mãn tính của cậu.
Ðã quen, không sao!
Tuấn: Tốt. Trong đủ thứ sính,
tớ thấy cách mạng các cậu có một thứ sính phổ thông
hơn cả là sính dùng cụm từ "có tình có lý". Tình và lý
được hô hoán nơi nơi như một nguyên tắc chỉ đạo căn
bản trong việc ứng xử.
Kiệt: Ðiều ấy sai?
Tuấn: Lý là sản phẩm của bộ
óc, có tính quy ước, tính cục bộ, tính khả quyết và không
thiếu lúc, hà... hà... tính khả ố nữa. Tống cổ cậu ra
đường là một cái lý. Tớ ngoại cuộc nhưng cứ nhìn hiện
tượng tớ có thể cho là cách mạng rất trọng lý. Dầu sao
chuyện cậu xù cách mạng hay cách mạng xù cậu, cho nghiêm
chỉnh trường hợp này cần một cuộc đối chất.
Kiệt: (nóng nảy) Trời cao
nhìn xuống đất dày ngó lên, nó xù tớ!
Tuấn: Cậu đã tự xác định chỗ
ngồi trong hàng ghế nạn nhân, tốt, thế dễ cho tớ khẳng
định hơn.
Kiệt: Cậu khẳng định sao?
Tuấn: Tổ tiên ta phản động!
Kiệt: Lại có chuyện đó nữa?
Tuấn: Một bồ cái lý không bằng
một tí cái tình! Di ngôn như vậy chạy tội vào đâu?
(lặng)
Trở lại câu hỏi ở vào hoàn cảnh cậu, à, tớ sẽ đáp
rằng... thiếp không để xấu chàng!
(Người sửa xe câm điếc lặng
lẽ thu dọn đồ nghề, đứng lên nhìn trời, vươn vai. Cầm
thùng dợm bước, nghĩ sao dừng chân, buột miệng.)
Người sửa xe: Ðược. Thế mới
là có trước có sau!
Kiệt: (giật mình) Trời đất,
ông không câm à?
Tuấn: Và ông không điếc à?
Người sửa xe:
(đủng đỉnh
bước đi, đáp dửng dưng) Còn tuỳ!
Kiệt: (ngó lom lom theo người
sửa xe khuất sau cánh gà) Ðếch hiểu nổi cuộc đời.
Ðếch hiểu nổi con người. Nó y cái bụng mình!
Tuấn: Lại đói?
Kiệt: Thì thế, sáng đã làm một
ổ bánh mì tướng mà giờ chạy đâu cả. Tôi tối mát trời
có mớ xẩu gặm cậu hả, con tì con vị nó lên nước trời.
Hồng: (mặc đồ bộ màu xanh
lá cây, từ ngõ bước ra, nhìn quanh như tìm một người, chợt
thấy hai gã ăn mày, khẽ gắt) Này hai ông nỡm! Chủ nhật
sao cứ ám quẻ ngay hiệu người ta, chỗ khác hộ đi!
Tuấn: Vâng, xin đi ngay, cô chủ.
Hồng: (nhác thấy con chó bông,
bế lên xoa đầu, nựng) Chị đã bảo đừng chạy rông
mà cứ cãi chị. Bị bắt cóc rồi làm thế nào. Ối giời
ơi xem mồm mép này, đã một bát thịt còn đi gặm xương
mút xẩu cho bẩn!
Kiệt: (cay đắng) Ðúng tác
phong bà lớn tương lai!
Tuấn: Ca bài con cá đi!
Kiệt: Nhục!
Hồng: (quay lại, gắt)
Nhẹ
không muốn muốn nặng phải không, mắng ai nhục đấy?
Tuấn: (lúng túng)
Dạ... bất
đồng tí chuyện mắng nhau đấy thôi. Chúng tôi đâu dám hỗn
với cô chủ.
Hồng: Anh đấy, anh lẻo mép lắm,
thôi đi đi, ban ngày ban mặt hàng quán thế này, bố tôi thấy
các anh, ngứa mắt lại sinh chuyện. Xin xỏ gì để khuya.
(chợt dịu giọng) Mà nãy giờ hai anh có thấy một người
trẻ trẻ, đeo kính cận dày ghé qua đây không?
Kiệt: Dạ không. Nhưng nếu sẽ
thấy chúng tôi làm sao phi báo cho cô?
Hồng: (nhìn người ăn mày bật
cười khẽ, nghĩ sao móc túi dúi cho Kiệt mấy tờ tiền lẻ)
Chân cẳng thế kia còn phi với lại chả phi. Giỏi làm
ơn phi ngay sang phía bên kia ngồi hộ tôi.
Tuấn và Kiệt: (đồng thanh đùa)
Xin chấp hành lệnh thủ trưởng!
(Có tiếng gọi trong ngõ vẳng
ra. Hồng bế con chó quay vào. Hai gã ăn mày lết sang Ban Chữa
Lửa Phường, ngồi nấp sau cái phuy có tàn trứng cá tránh
nắng. Cặp loa treo trên cột điện đầu ngõ thốt trổ một
bài quân hành ầm ĩ, rồi những thành quả với nhiều con
số đạt chỉ tiêu trích từ nhật báo được một giọng
nữ hăm hở xướng lên, sau cùng là bản thông cáo họp dân
phố với giờ giấc và nơi họp được quy định.)
Kiệt: (nhặt mấy quả trứng
cá rơi dập, chùi bỏ miệng) Lạ, sao lâu nay cái nghiệp
vụ bới rác biến mất!
Tuấn: Thì thời mở cửa có lắm
thứ bới thơm hơn!
Kiệt: (khoa tay xua ruồi) Cứ
thế này thành núi. Hôi quá! Và ruồi, một biển! (ngước
nhìn cặp loa, thốt gầm to) Cả chúng mày, đít đĩ thối,
bao giờ chúng mày mới thôi lạc quan, thôi hồ hởi phấn khởi
cho tao nhờ?
Tuấn: Cậu nhiêu khê nhỉ! Quên
rác quên ruồi quên loa đi. Rán ngủ tí đi. Tớ cần tí mơ
và có ngủ mới mơ được.
Kiệt: Lại còn mộng với mơ!
Tuấn: Bị hủy nhưng mình đã chết
đâu! Mơ mới là quyền không ai cướp được.
Kiệt: Tớ không có quyền nổi nóng
với chó nhưng cậu thì có quyền mơ. Tiêu cực khác mẹ gì
nhau?
Tuấn: Khác, vì chỉ trong giấc mơ
cậu mới tha hồ được vung gậy đập chết mọi loài chó
ô nhục, và phục hồi được niềm tin cậu là kẻ tàn tật
xứng đáng.
Kiệt: (chép miệng) Khát quá,
thèm ly trà đá chanh đường quá!
Tuấn: (giơ ra cóng nước lạnh)
Uống tạm đi, mà này.
Kiệt: Gì?
Tuấn: Có bao giờ cậu mơ vợ chưa?
Kiệt: Vừa phải thôi!
Tuấn: Thật đấy... nếu cậu không
quá câu nệ chuyện môn đăng hộ đối, chuyện anh hùng tên
lửa giai nhân bán chè, để cô Phấn đến tớ sẽ liều hỏi
cưới cho cậu. Suôn sẻ ăn hút có mà tha hồ.
Kiệt: (nằm xuống, cố một tiếng
cười khẽ, mệt mỏi) Hừ... hừ... Lại đùa đểu!
(Kiệt xoay mình sang bên. Tuấn
chợt thấy ngay cạnh một con sẻ gẫy cánh, nhặt nhanh, cân
nhắc, bỏ bị. Gã xoay nhìn bạn, rồi nhìn lên tàn cây, mỉm
cười trước khi lặng lẽ nằm xuống. Thật mau hai gã ăn
mày cùng thiu thiu ngủ. Màn.)
Màn Hai
(Giữa sân khấu. Năm giờ chiều
cùng ngày. Ngớt nắng, bớt xe, bầu khí vẫn ngột ngạt.
Phấn bán quán có nét tự tin
của kẻ hoặc có chút trình độ văn hóa, hoặc đang được
sở hữu một sức mạnh ngầm. Cô đang dọn hàng ra. Kỳ đeo
kính dâm, quần áo nhầu như mới chui ra từ một sòng bạc,
bụng lận súng, cung cách lạnh lùng, tiện tay giúp Phấn sắp
lại mấy chiếc ghế. Phấn liếc nhìn anh phu xích lô và hai
gã ăn mày. Họ vẫn ngủ. Cô thấy yên tâm cách vô cớ. Kỳ
tự rót tách nước, ra ngồi nơi bàn đốt điếu thuốc ba
số 5.)
Kỳ: Hôm nay mở muộn?
Phấn: (nhanh tay dồn mấy
gói thuốc lẻ vào nhau) Nhà máy nước đá khi không bảo hỏng,
thiên hạ than trời.
Kỳ: Hỏng gì! Có tin đồn
quốc doanh trở lại, bọn tư doanh nó muốn dở chứng đấy!
(ngẫm nghĩ) Mà sao em không bảo? Hiệu phở anh tậu máy chế
nước đá đã cả tháng.
Phấn: Ngại lắm!
Kỳ: Ngại gì, đây đó
mấy bước.
Phấn: Ðôi khi chỉ một
bước mà khó vượt đó anh!
Kỳ: Em câu nệ quá sau khó
hoà thuận.
Phấn: (đỏng đảnh) Sau
là sau thế nào, cứ như...
Kỳ: Còn cứ như gì nữa,
hay định xét lại?
Phấn: Hứ, xét lại thiệt
ai, có điều...
Kỳ: Sao?
Phấn: Gì thì cũng còn một
biên giới, chưa tới lúc... (nói lảng) Chắc tâm tư tình cảm
có gì biến chuyển, cô Hồng lúc này nom đẹp dội lên.
Kỳ: Ðang tính hỏi tội
nó đấy. Thời buổi này đi vớ cái thằng nhai chữ.
Phấn: (ngạc nhiên) Ơ cái
anh này!
Kỳ: Vấn đề là bố anh
không ưng. Và hơn thế anh không thuận.
Phấn: Thế giá như bác
trai không ưng em?
Kỳ: Tính anh quen nói tiếng
nói sau cùng!
Phấn: Chuyện mình đã non
năm, bao giờ em được nghe tiếng nói sau cùng ấy?
Kỳ: (lảng chuyện khác)
Có gì lạ không?
Phấn: Lạ gì ạ?
Kỳ: À thì dân tình.
Phấn: (sực nhớ) Anh vừa
bảo vụ quốc doanh. Nhớ hôm qua ông Ba Thành với đám bạn
có ghé uống nước, than nếu lại bị quốc doanh ông ấy sẽ
gỡ sạch máy móc bán đồng nát cho bõ ghét.
Kỳ: Thằng ấy muốn còng
đầu. Hắn nói với những ai?
Phấn: (giãy nảy) Thôi ông
ơi là ông ơi, toàn khách quen của tôi. Ông đập chuột kiểu
đó vỡ nồi nhà tôi mất.
Kỳ: (cười) Mâu thuẫn
nhỉ! Nhưng có thế mới sớm có cơ hội vào ăn nồi nhà anh.
Mà chuyện mấy thằng ruồi lằng ấy thôi để bữa khác.
Ðang rối đây.
Phấn: Gì mà rối?
Kỳ: (đắn đo) Bà anh lại
trở bệnh nặng, sân nhà không họp được, chả nhẽ kéo
nhau ra hiệu phở mà họp. Chú Cơ đã hứa chiều ngưng sòng
cho mượn chỗ, sẽ bù đắp tử tế, loa đã loan inh ỏi mà
giờ nhà ông ấy đang hoá thành cái hoả ngục.
Phấn: Chuyện gì vậy?
Kỳ: Lão trưởng ban sang
mách thằng Nhiễu vào Ban Chữa Lửa Phường đột mấy thùng
dầu hoả.
Phấn: Trời đất! Ban Chữa
Lửa đi chứa dầu hỏa?
Kỳ: Em lạ gì. Thời nay
lòng tham thằng nào không to ngang tính bất lương của nó.
Phấn: (phân vân) Lạ, gần
đây Nhiễu nó lớn vượt, ra dáng thanh niên lắm, gặp đâu
chào đấy, thấy thêm chững chạc.
Kỳ: Không, thêm quỷ quái.
Nó giả thị giả lệnh đấy. Mà nói cho cùng lỗi ở bố
nó. Mở sòng bạc đâu không mở mở ngay trong nhà. Giáo viên
văn hoá gì mà vụng tính.
Phấn: Nghe người ta xì
xầm anh đứng phía sau?
Kỳ: (nhăn nhó)Baø
nội anh con yêu con ghét. Hở tí là kể lể "chú nó nhà giáo
chân chỉ hạt bột, hai thằng lớn đã theo chân ông hy sinh
cho cách mạng, anh em cháu chắt quyền cao chức trọng, giàu
sang phú quý chỉ biết cái thân". Thử hỏi em anh lờ mà yên
với cụ? Rốt cuộc phải rán đưa lưng chịu trận cho ông
ấy yên với đám phường quận.
Phấn: (nói mát) Tội không,
thế ra chàng của tôi phải đưa lưng hứng cái việc một
người làm quan... (nhìn một vòng) Chiều đến nơi rồi, giờ
anh tính sao?
Kỳ: Thế em?
Phấn: Sao lại em?
Kỳ: Giá dụ nhờ quán em
làm chỗ họp có bất tiện không?
Phấn: (nhíu mày)Chỉ ngại
người ta thị phi tổ dân phố đi họp đầu đường xó chợ,
chứ họp ngay quán em chỉ lợi cho em, thiệt gì.
Kỳ: (đứng lên xoa tay)
Tốt, vậy để anh về bảo cái Hồng lên máy. Phải thông
báo địa điểm họp mới ngay kẻo không kịp.
(Kỳ vừa quàng bước đi thì
Nhiễu từ trong ngõ chạy ra, dáng tức giận, mặc quần bò
áo thun, chân đi giầy lười, tóc khá dài, mặt mũi không đến
nỗi. Phấn chận lại.)
Phấn: Gì mà như chạy giặc
vậy Nhiễu?
Nhiễu: (hậm hực) Ông già
em muốn tuyệt tự đó chị, bằng không chắc muốn ở tù!
Phấn: Nhảm. Mà làm sao?
Nhiễu: Sợ thằng già chữa
lửa đi tố sòng bạc, ông ấy tìm giết em.
Phấn: (kéo Nhiễu ngồi xuống
chiếc ghế khuất sau tủ thuốc) Có chị, để chị nói
cho. Chị đã biết sơ vấn đề. Mà em có... có lỡ dại làm
chuyện ấy không?
Nhiễu: (nhìn nhanh vào mắt
Phấn, cắn môi) Ăn cướp còn được tiếng bản lĩnh. Ai thèm
ăn cắp. Mà đây cũng không hẳn ăn cắp nữa.
Phấn: (cười thông cảm)
Chỉ mượn đỡ?
Nhiễu: Có gì cho em uống
không? Bị đuổi chạy ngất ngư.
Phấn: Có lỗi thì nhận,
sao phải chạy.
Nhiễu: Chịu hết nổi cái
thói gia trưởng độc tài! Giời ơi cứ làm như em ngu lắm.
Em đi guốc mộc vào bụng.
Phấn: Hỗn! Cha nghiêm con
nên người.
Nhiễu: Chị tin thế? Em
cũng từng tin thế. Nhưng giờ em hiểu. (cười khẩy) Nghiêm
kiểu bố em chỉ là cách ghì lấy một sức mạnh không còn!
Phấn: Thôi ăn bát chè đi,
(đặt bát chè đậu đen trên bàn) rồi về xin lỗi bố; cần,
chị đi theo.
Nhiễu: Xin lỗi một kẻ
cầm dao đuổi giết mình? (nhìn bát chè, gãi trán) Em không
sẵn tiền.
Phấn: Vẽ, chị mời. (vừa
dọn hàng vừa hỏi tiếp) Thế em lấy mấy thùng dầu làm
gì?
Nhiễu: (húp bát chè một hơi,
đặt xuống) Mới đầu, thật đấy, em chỉ tính lấy...
cho mấy nhà nghèo.
Phấn: Chị tin em được
không?
Nhiễu: Hỏi thế chị đã
không tin. Cũng chả sao. Thời nay ai tin ai. Bố con em còn chẳng
nữa là. (đứng lên, đột ngột đổi giọng quyết liệt)
Giờ em đã đổi phương án!
Phấn: Phương án gì?
Nhiễu: (nghiến răng)Em sẽ
đốt nhà thằng Ba Bạnh chữa lửa tham ô nhũng lạm, đốt
luôn sòng bạc của bố em. Em tởm lắm rồi chị biết không.
Ra vào suốt ngày toàn một bọn... một bọn...
Phấn: Hiểu!
Nhiễu: Chị hiểu gì?
Phấn: Thì bọn cờ bạc.
Nhiễu:
Ðầy quyền và đầy tiền nữa. Cái bọn người ta gọi là
chuyên gia đục khoét ấy. Chỉ bố em và anh Kỳ đi phục vụ
họ. Ðốt, có dịp là em đốt, đốt tuốt, nhất định rồi.
Phấn: (hoảng hốt)Ối trời
đất em nói thật hay nói chơi? Mà em cất mấy thùng dầu ở
đâu?
Nhiễu: Thôi, chị chớ dây
vào!
Phấn: (nghiêm giọng) Nhiễu!
Nhiễu: Thương chị nên
em van chị đừng có dây vào.
Phấn: Nhưng chị chỉ muốn
biết chỗ em giấu mấy thùng dầu.
Nhiễu: (ngẫm nghĩ, chỉ
đống rác) Lật ngược đống rác thì thấy!
Phấn: (rên lên) Thà mày
bảo tao sang bên hồ tắm lặn tìm cái kim.
(Thấy thấp thoáng bóng người
xuất hiện, Nhiễu lẩn nhanh. Phấn nhận ra Ba Thừa. Ba Thừa
bước đến kéo ghế ngồi.)
Ba Thừa: Trưa tôi có ghé
qua, quán cô chưa mở.
Phấn: Dạ hôm nay có vài
chuyện phức tạp. Mà nắng nôi sao cụ không ở nhà cho khoẻ?
Ba Thừa: Buồn lắm, ở
nhà buồn lắm!
Phấn: Cháu lại ao ước
được thế, ở nhà đọc sách chẳng hạn.
Ba Thừa: Khi còn trẻ tôi
ao ước tới đâu ấy chứ, nhưng giờ tôi lại không thích
gì hơn lao động, không mê gì hơn sinh hoạt cô ạ.
Phấn: (dọn thêm hàng ra)
Cháu hiểu.
Ba Thừa: (nhíu mày) Cô hiểu?
Không, tôi không tin cô hiểu lắm đám già như tôi. Cô biết
không, khi một kẻ đời quyết phủ nhận, không đếm xỉa
tới nữa, làm sao đây để chứng minh mình còn sống? Chỉ
nghĩ đến cái việc loay hoay chứng minh mình còn sống đã
chết trong lòng. (sực nhớ hiện cảnh) Mà sao thằng bé thấy
tôi, nó vụt chạy, có chuyện gì thế?
Phấn: (nghĩ ngợi) Dạ không.
Ba Thừa: Báo đăng dạo
này cướp giật như rươi, cô cẩn thận.
Phấn: Cám ơn cụ. Cụ uống
gì không để cháu...
Ba Thừa: (lấy khăn tay lau
mồ hôi trán) Hượm hượm đã, nóng quá!
Phấn: Vâng, nhưng chắc
còn thua xa ngoài Bắc?
Ba Thừa: Ngoài ấy thì nói
làm gì. Rét chết trâu chết bò, nóng chết cò chết quạ.
(Lặng lâu)
Phấn: (ngưng tay soạn hàng,
buột miệng) Cháu hỏi điều này cụ giải giúp cháu nhá?
Ba Thừa: Miễn đừng ngoài
sức tôi là được.
Phấn: Dạ không, không có
gì trầm trọng. Thắc mắc của cháu chỉ là... là xưa nay
thật cụ đã thấy... cẩu phụ sinh hổ tử chưa?
Ba Thừa: Nhiều!
Phấn: Tất nhiên là phúc?
Ba Thừa: Tuỳ...
Phấn: Còn... hổ phụ sinh
cẩu tử?
Ba Thừa: Nhiều hơn!
Phấn: Tất nhiên là họa?
Ba Thừa: Cũng tuỳ...
Phấn: Thế... cẩu phụ
sinh cẩu tử?
Ba Thừa: (nhìn Phấn) Mà
sao cô hỏi như ra câu thai câu đố vậy?
Phấn: (biện bác) Dạ tối
qua đọc sách, cháu thấy người xưa luận có mỗi việc hổ
phụ sinh hổ tử.
Ba Thừa: (nhìn ra đường
phố, thốt nói mông lung) Thời nay trên dưới thấy chả ra
làm sao!
(Cơ quần áo xộc xệch đột
ngột xuất hiện, tay cầm gậy, mắt dáo dác, lớn giọng hỏi
Phấn.)
Cơ: Cô thấy thằng Nhiễu
nhà tôi chạy qua không?
Phấn: (bối rối)Dạ không,
chuyện gì thế chú?
Cơ: Không con tội chết
có con tội sống. Thằng phá gia chi tử.
Phấn: Chuyện đâu còn đó
chú ơi. Chú nóng quá làm em nó sợ.
Cơ: Ối giời ơi cô lại
đi lo nó sợ. (gằn giọng) Sợ! Sợ! Sợ! Cái xó nước này
đừng có những thằng già cái gì cũng sợ, rồi những thằng
quỷ con chẳng còn thấy cái gì để sợ đã không ra thế
này!
Ba Thừa: (nhăn mặt can khẽ)
Ông không nên nói thế!
Cơ: (nhìn dò xét người
lạ) Cụ bảo sao?
Ba Thừa: (lắc đầu) À
không, không...
Cơ: (phân trần với Phấn)
Ðúng là trời bắt tôi nuôi báo cô nó đây! Ăn thì như thần
trùng, phá thì như quỷ sứ phá nhà chay. Thiên địa ơi lần
này Ba Bạnh nó tố lên mặt báo có mà thánh gỡ. (gào) Nhiễu...
mày còn ở cái xó nước này có trốn lên trời xuống bể
tao cũng lôi mày ra!
Nhiễu: (từ xa nói vọng
tới) Ðông lắm rồi bố ơi. Hơn bảy mươi triệu. Ðầu đít
y nhau bố không tìm nổi đâu!
Cơ: A, thằng này giỏi.
Muốn sống về ngay.
Nhiễu: Nhà đâu mà về?
Cơ: Thế chỗ nào mày chui
ra, chỗ nào mày hốc mày ngủ, chỗ nào...
Nhiễu: Phương tiện ấy
cháy rồi bố ơi!
Cơ: (hét) Thằng khốn kiếp,
mày dám gọi gia đình cha mày là một phương tiện?
Nhiễu: (giọng xa dần) Từ
bao giờ cả nước đã coi nhau là một phương tiện, bố không
biết sao?
Ba Thừa: (nhỏ nhẹ) Trị
con như trị lính, giơ cao đánh sẽ nó mới gờm ông ạ.
Cơ: Thời nay kiểucụ nó
phá cho sập ván thiên nghiêng ván địa. Bọn đầu trâu mặt
ngựa trong trại Cải Huấn ấy à, tôi tiu cho còn nhũn như
con chi chi.
Ba Thừa: Thế ra ông là
quản giáo!
Cơ: Thì thua nó thế nào
được hả cụ. Nó làm xằng làm bậy mẹ nó phải đi năn
nỉ ỉ ôi, bồi thường, tưởng đã êm, ngờ đâu còn dám
hăm he người ta, người ta đòi lôi cả họ nhà tôi lên mặt
báo. Thằng này phải quan trị quan nhậm...
Hồng: (từ cửa hiệu phở
gọi giật) Chú, chú Cơ!
Cơ: Cái gì?
Hồng: (bước tới liếc
Phấn và Ba Tùy, vẻ vừa ngượng vừa bực) Chú lạ nhỉ,
chuyện trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã thông là thế nào?
Bà mệt đấy, bố cháu bảo gọi chú.
Cơ: (quăng cây gậy về
phía Ban Chữa Lửa Phường, có tiếng la "ấy ấy" của hai
gã ăn mày; trước khi theo chân Hồng chạy vào ngõ, dậm chân
than lớn) Vợ dại, con hư, mẹ đau liệt. Trời đất ơi nước
này đến đốt cha nó hết cho nhẹ thân!
Ba Thừa: (nhìn vào con ngõ,
lẩm bẩm) Thời nay cha con thấy chả ra làm sao!
(Sách và Tư Diện bước đến.
Sách ăn mặc xuềnh xoàng, trước bụng ôm một thùng giấy
nhơ nhỡ. Tư Diện ngậm ống vố, mặc quần bò, sơ-mi ca rô,
trời nóng vẫn thắt chiếc nơ trắng như sửa soạn lên sân
khấu, bàn tay lâu lâu xoè ra như có cố tật. Họ lần lượt
ngồi gọi nước. Chưa yên chỗã đã vang tiếng loa. Chẳng
ai tỏ ra ngạc nhiên với nội dung thông cáo mới.
Nhân dậy từ lâu nhưng chỉ gỡ
tờ báo khỏi mặt, bước khỏi xe, gia nhập đám đông khi
nghe thấy một gã ăn mày năn nỉ xin Phấn que diêm.)
Nhân: (ngáp, bước tới
gần gã ăn mày) A! Lật cánh từ Trường Sơn đông sang Trường
Sơn tây rồi đấy! Thế phải hơn. Ðóng chốt đó mãi làm
mang tiếng nước ta ra ngõ gặp anh hùng. Nào, thèm thuốc gì
tôi mời mỗi ông một điếu.
(Ðến đưa gã ăn mày hai điếu
thuốc và mấy que diêm; gã ăn mày cám ơn, lết về chỗ cũ
với bạn. Nhân quay lại bàn ngồi cạnh Ba Thừa.)
Ba Thừa: Hình như ông ngủ
lề đường cả buổi?
Nhân: Tôi thấy bác với
cậu cháu ghé vá lốp khi trưa. Mà sao bác lại đổi kiểu
chuyển xích lô sang xe đạp?
Ba Thừa: Máu hơi cao tôi
cần tí thể thao.
Nhân: (chắt lưỡi) Thế
là cầm bằng cả đời tôi không biết mùi máu cao!
Ba Thừa: Sinh hoạt đây
lạ. Từ hôm ngoài Bắc vào thấy ai cũng như nửa sống nửa
chơi. Ông nữa, sao chiều ăn mày như chiều vong thế?
Nhân: Ối, người xưa mời
cả ăn mày uống trà đấy bác.
Phấn: (cười, chen vào)
Chú nợ mấy ông nội đó từ kiếp nào vậy chú?
Nhân: Kiếp này. Mà cách
riêng ai chả nợ họ, cô, ông giáo, ông văng nghệ ngồi kia,
và cả bác thiếu tướng nữa.
Ba Thừa: (ngạc nhiên)Ơ,
sao tôi phải đi nợ đứa ăn mày?
Nhân: Dễ sao trên trời
rơi đậu trên cổ một ông tướng? Ðội ngũ cơ bản vẫn
là bộ đội của bác, thư thả bác kiểm tra xem.
Ba Thừa: (lờ nhìn sang phía
đống rác, nói trỏng) Lỗi nào phải do tôi. Ðời đấy, đời
làm lem luốc cả!
Nhân: Sao không bảo mình
làm lem luốc đời? Ðạp xe ngày ngày tôi tiếp cận lắm hạng
vĩ nhân. Thật thời nay hiếm người can đảm!
Ba Thừa: (nhấp chén nước)
Hai tuần nay chạm mặt ông mấy lần, trừ lần sơ ngộ, còn
lần nào chè uống cũng chát đắng!
Phấn: (nói chận) Cụ với
các bác các chú đã nghe thông báo. Quán cháu hôm nay hân hạnh
được làm địa điểm họp tổ dân phố. Gớm, trời oi quá.
Cháu có nấu nồi chè đậu đen đây. Trong khi chờ đông đủ,
cháu mời quý vị mỗi người dùng một bát cho mát ruột.
Tư Diện: Cô cho tôi một
bát, nhiều đá vào!
Sách: Tôi cũng thế, nhưng
khá đường vào!
Ba Thừa: Tôi cần nhiều
cả đường lẫn đá. Tiện thể với hộ tôi cái điếu. Anh
cháu tôi hôm nay họp trên cơ quan, về muộn, tôi đi thay. (rít
một hơi thuốc lào, ngửa cổ nhả khói) Nhưng họp gì chứ
họp vụ rác tôi hết sức hoan nghênh. Ngồi ngoài lề đường
càng dễ thở. (nhìn đồng hồ tay) Sáu giờ họp, còn hơn
nửa tiếng. (nhìn quanh, giọng đề nghị) Các vị có thấy
mình nên tranh thủ bàn trước một vài phương án, tí nữa
vào họp mình cứ việc đề ra, rồi chung quyết cho đỡ tốn
thì giờ chăng?
Sách: Rác thế kia khó gọi
là đống, phải là núi. Ít ra cũng mươi mười lăm hộ trong
tổ dân phố mình bị một Ngũ Hành Sơn trấn trước cửa.
Nhưng chuyện dọn nó đi, ấy cụ thiếu tướng mới về không
rõ đó thôi, chứ nhây nhưa đã lâu. Mà âu cũng là dịp tốt.
Chiều nay nhất định nhờ cụ đứng mũi cho, dù sao một tiếng
nói lớn...
Ba Thừa: Vâng để tôi liệu
xem! Lát nữa tùy tình hình tôi sẽ tìm cách nâng quan điểm
sự cố này. Ăn ở như thế quả không tốt. Tùy tiện, vô
phép vô tắc và mất vệ sinh quá. Nhưng... (giọng thăm dò)
thế theo giáo sư để xử lý cái núi rác ta có cách nào hay
nhất? Nhà nhà trường kỳ góp tay thi công dời nó đi chỗ
khác, hoặc xin các hộ ăn nên làm ra ủng hộ tiền bạc thuê
lực lượng đồng bào đang thiếu việc làm gánh vác giúp
cho, hoặc đốt?
Sách: (ngẫm nghĩ) Ba giải
pháp cụ vừa đề cập thực đã được đưa ra thảo luận
từ năm nảo năm nao. Bế tắc hoàn bế tắc. Vả bảo dời
thì dời đi đâu một quả núi hôi thối thế kia? Một núi
rác mục rã chẳng là quặng mỏ để đánh đổi được. Giá
nó mọc ở Hoa Kỳ, ở Ðức, ở Canada, nó có hy vọng được
cải tạo thành đôi chút của cải vật chất. Hoặc nó mọc
ở Ấn Ðộ, ở Hồi Quốc, lỡ cửa quan gõ mãi chẳng ai đoái
hoài, vạn nhất người dân phải đến đập cửa cái gọi
là Bureau of Karma, có thể hiểu là Phòng Giải Nghiệp Nhà Nước,
cũng còn cơ may được phòng này ân cần giúp nó hoá kiếp
bằng nhiều cách thần kỳ không cần tranh luận. (lặng) Còn
thi công? Xin thưa thật với cụ thiếu tướng hào khí ấy
nay vơi vạt nhiều lắm. Hay đến gõ cửa các hộ như cụ
vừa nói ăn nên làm ra, xin ủng hộ tiền bạc? Nhưng dính
chân trong hàng ngũ nhân dân như mình, ai là người đáng gọi
ăn nên làm ra trong thời buổi này? Anh Nhân? Cô Phấn? Anh Tư?
Như tôi đây vì miếng cơm manh áo đành bỏ nghề dạy ba cọc
ba đồng, tập tễnh bán buôn, mà lại bị liệt vào hạng
ăn nên làm ra sợ oan Thị Kính không bằng. Giá thậm ngôn
mong quý vị bỏ qua, chứ cái nước kinh tế thị trường kiểu
tôi sao cứ thấy mình như phù dung ấy, sớm nở tối tàn!
Ba Thừa: (bóp trán nghĩ
ngợi) Thế chả nhẽ bó tay? Hay đốt?
(Vừa lúc có mùi khét toả ra
nơi hai gã ăn mày ngồi. Chỉ Phấn lưu ý.)
Phấn: (la lên) Này
hai ông mãnh kia, đốt gì mà khét thế?
Tư Diện: (ngơ ngác) Lạ,
sao tôi chẳng ngửi thấy gì kìa?
Sách: Cô thính mũi thật.
Như anh Tư, khứu giác tôi dám cũng hỏng. Giá bây giờ có
ai phanh ngưu tể dương mà nướng ngay cạnh mũi cũng đến
nồng một mùi rác là rác. (quay sang Ba Thừa) Thưa cụ vừa
dạy sao? Cụ muốn chọn giải pháp sau cùng? Nếu giản đơn
như thế làm gì còn có chuyện chiều nay chúng ta ngồi đây.
Vâng, với một núi rác hai mươi tuổi, ai trong chúng ta đoán
nổi bên trong sự rệu rã của nó chứa những hoá chất gì,
đã phản ứng qua lại ra sao và sinh ra những độc chất chi;
lại nữa đang mùa nóng bức, tạo ra cả một khối lửa ô
nhiễm khổng lồ, nhà cụ, nhà tôi, nhà những vị quanh đây
nữa, sợ rồi lại lâm cảnh cháy thành vạ lây. (lưỡng lự
giây lát, cúi khuân một thùng giấy để trên bàn, mở ra)
Nhân đây... vâng, nói gần nói xa chẳng qua nói thật, tôi
mới mua lại được ít chai thuốc xịt khử mùi chính hiệu
Mỹ quốc, hoa lan, hoa huệ, hoa hồng đủ cả, giá lại rẻ
hơn các sạp lề đường, tạm thời quý vị có thể...
Một giọng ở xa:
(báng
bổ) Muốn phá động đĩ lại cứ ngồi vẽ ra đủ thứ
nguy cơ lây bệnh lậu là thế nào?
(Sách tẽn tò khép thùng đặt
xuống đùi. Mọi người cùng nhìn về phía trái sân khấu,
không thấy ai ngoài hai gã ăn mày đang giấm giúi làm việc
gì đó.)
Ba Thừa: (vờ không nghe
thấy lời bất nhã, nhìn đồng hồ tay, ngó quanh) Ðồng bào
ở đây kể là lề mề. Ðã quá giờ mà chẳng được mấy
người. Tổ trưởng dân phố nữa, sao cũng không thấy?
Nhân: Bánh đúc mãi phải
ngán! Tôi thấy chỉ hai ông cháu bác có lý do chính đáng để
hăng.
Ba Thừa: (ngạc nhiên) Sao
ông biết tôi hăng?
Nhân: Tôi đoán mò thôi,
sai tôi xin rút lại; nhưng của đáng tội tuần trước có
Việt kiều ở nhà bác ra gọi tôi chở về khách sạn, bà
ấy hở miệng quá, vì thế tôi mới biết anh cháu bác mất
cơ hội bán cái nhà với giá trăm năm mươi cây. Không bị
cái núi rác quái quỷ nó ám, nhà đúc ba tầng như thế, mua
theo chính sách hoá giá nhà rẻ mạt như thế, bác có đồng
ý với tôi bán vứt cũng trên hai trăm cây không?
Ba Thừa: (ngẩn ra) Ơ cái
nhà ông này lạ nhỉ!
Tư Diện: (gật gù) Ðó
gọi là tai mắt nhân dân!
Nhân: (phân trần chung) Thú
thật ý tôi chỉ muốn ông bác đây thông cảm cho những người
vắng mặt. (nói với Phấn) Cô cho tôi bát chè cô Phấn ơi.
Giống bác thiếu tướng nhiều đường nhiều đá. (quay sang
Ba Thừa vừa đứng lên đi tới lui) Ðấy, tính tôi thẳng
ruột ngựa nên hay mang tiếng thiếu đoàn kết! Vâng, quả
bác chưa rõ nhân tình vùng này. Họ đã chán ngấy mấy cái
chuyện rác rưởi. Ðây rồi tôi sợ những buổi họp đại
loại sẽ không còn ai tham gia. Tưởng tượng mà xem, chỉ từ
câu lạc bộ bơi lội Tân Bình lên tới Thái Hoà này mà đã
phải vượt một dãy Trường Sơn, phát sốt phát rét lên ấy
chứ! (lặng) Thôi bây giờ tôi xin đề nghị.
Ba Thừa: (ngồi trở lại
ghế) Ông đề nghị gì?
Nhân: Ông giáo sư đã nêu
ý kiến, tại sao ta lại không nghe thêm ý kiến cô Phấn nhỉ?
Dù gì cô cũng mở quán kiếm sống kế ngay núi rác.
(Nhiều tiếng "đồng ý!")
Phấn: (bối rối) Cháu biết
gì!
Nhân: (cười) Ít nhất cô
cũng biết nói.
Phấn: Dạ... nhưng khó...
vì cứ nhìn cái núi rác cháu lại ghét đời cháu.
Nhân: Sao thế?
Phấn: Dạ đầy những mâu
thuẫn!
Ba Thừa: Ðầy những mâu
thuẫn?
Phấn: Dạ vâng. Lý do là
cháu sợ nó, kế nhớ nó và sau cùng lại thấy cần nó.
Nhân và Ba Thừa: (đồng
thanh) Cần cái núi rác?
Tư Diện: (gật gù) Bước
phát triển tốt của một quá trình tư duy nghiêm túc!
Phấn: (nhìn Nhân và Ba Thừa)
Vậy cháu mới bảo mâu thuẫn! Hơn hai mươi năm trước thật
thì chưa có cái núi rác kia, vâng, quả thế, chưa có. Ðó
mới chỉ là những đống nhỏ tàn tích Mỹ ngụy bỏ lại
được người ta vun vào.
Ba Thừa: Là cô chỉ nghe
kể?
Phấn: Dạ lẽ tất nhiên.
Và những tàn tích ấy cũng không phải rác. Nó là trang phục,
là vật dụng, lắm thứ chỉ ít lâu sau biến thành của cải
vật chất cho nhiều người. Mẹ cháu đẻ rơi cháu lúc chạy
loạn qua đó.
Ba Thừa: Thời chiến việc
ấy cũng thường!
Phấn: Giữa khi vẫn kiên
trì làm công tác giao liên! Khi cháu lên mười chỗ đó mới
thực biến thành một núi rác. Khốn khổ là miếng cơm chúng
cháu vẫn phải từ đó mà ra. Một ngày mẹ cháu bới trúng
một đầu đạn M.79, cháu mồ côi mẹ.
Ba Thừa: Chính sách thực
dân mới tai hại lâu dài là thế!
Phấn: Ba năm sau cháu mồ
côi cha.
Ba Thừa: Lại cũng bới
rác?
Phấn: Dạ không thưa cụ.
Khá hơn. Nhờ tí vốn mẹ cháu để lại cha cháu quy tụ ăn
mày biến thành chợ buôn đồng nát.
Ba Thừa: (ngao ngán) Sao không
tìm một nghề nào khác?
Phấn: Khổ cái cha cháu
gốc đặc công nội thành, thời bình còn ai cần đến cái
nghề dễ sợ ấy! Bất thình lình cha cháu thổ huyết mà mất,
mở đường cho ông Bạch làm tương, ông Hanh lái lợn, chị
Ba đậu nành, anh Tám vé số, ông Trường thợ mộc, cả bà
mẹ nuôi cháu mới mất năm qua, toàn những người lao động
tốt, đùng cái lăn ra chết người vì phổi, người vì ung
thư, người vì gan, người vì lị. Riêng cha mẹ cháu cách
mạng đem thiêu, không biết tro cốt gieo rắc nơi nào!
Ba Thừa: (thở dài) Số
cô truân chuyên.
Phấn: Dạ chưa, vì còn
may. Cháu có bà dì họ xa, cô quả, trôi dạt từ kinh tế mới
về. Bà đến với cháu. Nói theo kiểu xã hội ta đôi bên
đều có lợi. Nhưng dì là người phúc đức, buôn thúng bán
mẹt nuôi cháu học đến đại học.
Ba Thừa: (ngạc nhiên) Cô
có trình độ đại học?
Phấn: Dạ mới năm thứ
hai đại học Nông Nghiệp thì dì cháu mất. Cháu phải bỏ
học kiếm sống. Từ đây mới tạm xứng với chữ cụ gọi
truân chuyên. Chỉ nội một năm cháu làm mấy việc. Ðầu
tiên là công ty Súc Sản. Ba tháng cháu rút lui vì ông giám
đốc còn quá súc sinh. Nhưng còn vận may. Nhờ cô bạn và
hai cây vàng di sản của dì cháu, cháu trở thành cô công nhân
hãng giày Nike.
Tư Diện: Con cháu tôi ba
cây chưa đâu vào đâu!
Phấn: (lớn giọng hơn)
Thế cháu mới gọi vận may! Nhưng tránh lỗ hà ra lỗ hổng,
chỉ ba tháng sau cháu bênh mấy chị em, bị đốc công Nam Triều
Tiên nó đánh, rồi đuổi.
Ba Thừa: Kiện tụng thế
nào cô chẳng vớ mẻ to. Cả thế giới người ta lên án vụ
này.
Nhân: (chen vào) Ối giời,
đạp xe tôi gặp thiếu giống gì trường hợp tương tự.
Nhà nước ta đang giữa thời buổi bịt mồm con vui lòng khách.
Có mà kiện củ khoai!
Phấn: (nhìn Nhân cảm động)
Chú nói đúng. Coi như cháu mất toi hai cây vàng. Thế là cáo
chết ba năm quay đầu về... cái núi rác này.
Ba Thừa: Và cô cho như thế
là... nhớ?
Phấn: Dạ không hẳn nhớ
theo nghĩa thông thường. Ðúng ra từ lâu núi rác với cháu
đã có hơn một ý nghĩa. Một mặt nó như nguyên nhân đáng
ngờ của mọi tang ma trong vùng. Mà cụ với các bác các chú
cũng thông cảm. Cha cháu hay bảo thà biết chắc một con hổ
đang giương vuốt đỡ sợ hơn là ngờ một con chó dại đang
giấu nanh (húng hắng ho). Mặt khác thỉnh thoảng có việc
đi xa, lạ lắm, cháu lại thấy nhơ nhớ nó như nhớ mồ nhớ
mả ba người thân yêu!
Sách: Kể cái tâm lý ấy
cũng lạ phải không quý vị? (nhìn Phấn) Cô Phấn, cô có
đủ lý do để sợ, nhưng con người có nhất thiết phải
cần một nấm mồ bá vơ như thế để nhớ?
Ba Thừa: Tôi nhất tríù
với ông giáo sư. Trường hợp này không nên và không thể
gọi là nhớ.
Phấn: (giọng chợt cứng
rắn) Xin quý vị cho cháu được hết lời. Hy vọng cháu
sai, nhưng... cháu tin cháu đúng! Dù sao đó chỉ là tâm tư
tình cảm ngày trước, thế nào thì nay đã khác. Giờ cháu
sống nghề bán buôn, tự nhiên, vâng, tự nhiên lại thấy
núi rác kia là một đối tượng cần phải duy trì.
Nhân và Ba Thừa:
(đồng
thanh) Cần duy trì cái núi rác?
Tư Diện: (nhả một hơi
thuốc, gật gù) Bảo rằng nốt ruồi duyên nên giữ thì nốt
ruồi duyên, bảo rằng vết ruồi ỉa phải phá thì vết ruồi
ỉa. Tại tâm cả!
Phấn: (nhìn Tư Diện) Thưa
không, dựa trên tình hình thực tiễn nước ta đấy ạ. (nói
với mọi người) Anh Kỳ công an cũng đồng quan điểm với
cháu. Ðể dòng chảy kinh tế chảy mạnh hơn trình độ chèo
chống của người dân là một cách tự sát tập thể không
cần giải thích. Cháu đưa ví dụ. Nếu ngay ngày mai, chỗ
núi rác được thay bằng một khách sạn năm sao, nườm nượp
khách ngoại ra vào, đừng nói cái quán lề đường của cháu,
ngay hiệu phở của ông tổ trưởng tổ dân phố, hiệu may
áo dài của bà phó chủ tịch xã, hiệu sửa xe đạp của
anh phường đội trưởng, hiệu bi-da của ông phó ban bí thư
quận, quán thịt chó của ông phó ban công an xã vân vân sẽ
tuần tự sập tiệm hết. Môi trường mới đòi hỏi con người
mới, điều kiện sinh hoạt mới, vốn liếng làm ăn mới,
cung cách bán buôn mới, và, cháu xin nói thẳng, cả đường
dây liên hệ móc ngoặc mới. Còn nhiều lắm. Nếp bán buôn
như phố ta đây cạnh tranh sao nổi với tư bản người Hoa,
người Thái, người Mã, người Nam Triều Tiên, người Tân
Gia Ba, người Nam Dương, người Úc, thậm chí cả đám Việt
kiều? (nhìn quanh, khẳng định) Trước mắt cháu mất quý
vị đây này. Giờ cháu trắng tay, tìm đỏ mắt không ra việc,
may nhờ anh Kỳ nâng đỡ, mở được cái quán lề đường
không đến nỗi phải là quán chạy, thử tưởng tượng một
ngày quán biến hết khách, vâng, chả hiểu rồi mấy ông mãnh
kia (chỉ hai gã hành khất) có chấp nhận cho cháu gia nhập
đội ngũ hay không. Cháu cho anh Kỳ cháu đúng khi bảo ăn cây
nào rào cây nấy mà chắc!
Sách: (thở dài) Riêng tôi
biết chạy đàng nào khác nữa để cô phải mất! (mân mê
cái thùng) Mà cô Phấn à, cô ưa mua ưa dùng loại nước hoa
nào thế nhỉ?
(Ngoài đường ầm ĩ tiếng xe
gắn máy chạy đua, tiếng la thét của bọn thanh niên. Tất
cả nhìn về một phía cho đến khi tiếng động xa dần.)
Ba Thừa: (lắc đầu) Trở
lại một thứ tóc đã lâu, nhưng phải nói tôi chưa thấy
ai có cái mâu thuẫn đáng sợ đến thế!
Phấn: (cầm dao bước tới
thùng nước đá, cười khẩy, chặt mạnh một tảng) Thế
cháu mới bảo cháu ghét đời cháu!
(Một phụ nữ bán trứng vịt
lộn rao lanh lảnh, ghé quán mời. Tư Diện cao hứng gọi mấy
trứng, gọi thêm chai bia ngồi nhâm nhi một mình.)
Nhân: (nói lớn) Coi như
thêm một người không muốn phá núi vì ngại tiếng nổ! Cá
nhân tôi xin thua lý luận thực tiễn của cô Phấn (nhìn Tư
Diện đập đập cái tẩu vào tay, sửa soạn bóc trứng) Chết,
quên anh Tư Diện là một lỗi to tát. (mọi người cùng nhìn
Tư Diện) Anh Tư, tới cữ rồi hả?
Tư Diện: Cữ gì. Lai rai
đỡ buồn.
Nhân: Cánh chúng tôi gọi
đó là đúng phương hướng. Mỗi chiều làm bậy một ly, là
ta quên hết cu li cuộc đời. Nhưng này anh Tư, dù gì anh đã
nghe hết. Ðấy, nhân dân ta hiện kẹt thế đấy. Anh trổ
tài hoá giải giúp những khó khăn được không?
Tư Diện: (chối phắt)Ơ
hay, cái thằng tôi thì làm được gì!
Nhân: (vui vẻ) Vùng này
ai chả biết tiếng anh, nhưng thiết tưởng tôi nên nói qua
về anh một chút, biết đâu bác thiếu tướng có thể vận
dụng anh vào một phương án mới. Vâng, anh Tư Diện vốn là
một ký giả sắc bén, tác giả nhiều bài báo nhiệt liệt
ca ngợi thành quả các mặt cách mạng đạt được sau giải
phóng. Vì nhu cầu phục vụ nhân dân đòi hỏi, anh phải chuyển
công tác, hiện là một nghệ sĩ ưu tú, một nhà ảo thuật
tài ba. Tôi thấy anh nhiều lần biểu diễn trên sân khấu
cũng như ở các lề đường. Chỉ nắm lại bàn tay, hỏi khán
giả thích mùi hoa gì, đáp hoa hồng, anh mở bàn tay là ngửi
thấy mùi hoa hồng, đáp ngọc lan là ngửi thấy mùi ngọc
lan; thậm chí chính tôi đây, mới tháng trước còn ngờ, nay
ngoan cố đến mấy cũng phải bái phục. Hôm biểu diễn ở
đình Ông Tạ, tôi yêu cầu, anh mở tay và tôi đã ngửi thấy
mùi chả chó. Vâng, chả chó, đúng là chả chó! Vì vậy...
Ba Thừa: (sốt ruột nhìn
Tư Diện, hỏi chận) Như thế là tài thánh chứ sao gọi ảo
thuật?
Tư Diện: (hai bàn tay nắm
xoè liên tục) Dạ chính ảo thuật.
Ba Thừa: Ảo thuật mà ly
kỳ đến thế, anh có nghĩ anh số một trong lĩnh vực này
không?
Tư Diện: (đứng lên, hơi
ưỡn ngực đi tới lui, đột ngột dừng chân chỉnh lại chiếc
nơ cổ, kiêu hãnh nhìn Ba Thừa) Cụ đã hỏi thì xin thành
thật mà đáp tôi chưa được hân hạnh quen người số hai!
(Có tiếng vỗ tay trộn với tiếng
điếu cày rúc ròn rã. Sách nhanh tay lục thùng lôi ra mấy
chiếc nơ xanh đỏ, nửa kín nửa hở quảng cáo với Tư Diện.
Chưa kịp nói gì Sách lại phải lặng lẽ bỏ vào thùng. Tiếng
vỗ tay lớn bất thường của Ba Thừa đã thu hút hết ánh
mắt mọi người.
)
Ba Thừa: Hay, hay quá, tôi
vừa nghĩ ra một phương án mới. Ông giáo sư là một trí
thức, một nhà khoa học, đã cảnh giác chúng ta phương án
đốt còn đòi hỏi nhiều nghiên cứu; cô Phấn thuộc giới
thương buôn thì quan ngại chuyện giải phóng núi rác ngay có
thể gây ảnh hưởng không thuận lợi đến đời sống kinh
tế người dân; ấy là chưa kể còn nhiều ý kiến trái ngược
sẽ đến từ nhiều thành phần xã hội khác, mà lợi bất
cập hại do công tác tiến hành không được đồng tình lẫn
đồng bộ là điều rất có thể xảy ra. Vậy thì, anh Tư
Diện, anh đại diện cho giới văn nghệ sĩ, giá như tôi đề
bạt anh trước cuộc họp, anh có cách nào dùng quyền lực
ảo thuật, cấp thời giúp giải quyết vấn đề chung một
cách hợp tình hợp lý không?
Tư Diện: (trở về chỗ,
nốc một hơi bia) Xin cho biết cụ thể.
Ba Thừa: Chẳng hạn anh
biến mùi rác thối thành một mùi gì ít ra dễ ngửi hơn,
hoa hồng thì tốt, hoa lan tốt hơn, mà chả chó lại càng tốt
hơn nữa. Ðược không?
Tư Diện: (tay lại nắm
xoè, dáng tư lự) Ngày nay các nhà ảo thuật kỳ tài trên
thế giới trong chớp mắt biến gái tơ thành cọp già, xoẹt
một cái phủi mất khỏi bãi đậu cả một tàu hoả hay bãi
đáp cả một thuyền không gian. Ðây chỉ là tí việc cỏn
con, sá gì. Có điều...
Ba Thừa: Anh cần một số
điều kiện vật chất? Hay một ngân khoản chi dụng cần thiết?
Hay một thù lao tương xứng? Tất cả đều hợp lý nếu anh
nhận lời. Tôi cam đoan.
Tư Diện: Tất nhiên là
thế, nhưng điều tôi băn khoăn là... là nhà tôi cũng ở cạnh
núi rác, đã nhiều năm như toàn thể khán giả của tôi trong
vùng, nhưng... thú thật với cụ và quý vị, (giơ cao hai tay)
tôi có thấy nó hôi thối chút nào đâu!
Một giọng ở xa: (nói như
gầm) Quen thói bán mồm nuôi trôn làm sao còn biết hôi thối!
(Mọi người lại dồn ánh mắt
về cánh trái sân khấu, vẫn chỉ thấy núi rác và bóng hai
gã ăn mày ngồi thu mình.
Từ trong ngõ nhiều người hộc
tốc chạy ra. Vài khách ngoài quán đứng lên, cả khách trong
hiệu phở vừa bước ra cũng dừng chân đứng nhìn.
Bích, quần đùi áo thun, mừng
rỡ chỉ vào Nhân.)
Bích: May quá, chú Nhân kia
rồi. Chú vào chở cụ tôi lên viện ngay, nhanh lên!
Nhân: (quay nói với mọi
người) Lại suyễn, lại giường Thống Nhất hạng sang,
và tôi lại sẽ là tài xế túc trực lương bao ít ra tuần
lễ. Cũng tốt thôi!
(Nhân nhảy tót lên xe đạp thẳng
vào ngõ. Mấy người đàn bà chạy theo. Bích và Kỳ đứng
lại.)
Phấn: (mau mắn) Thưa bác
bệnh bà lại tái phát?
Bích: (lạnh lùng)Thì vẫn
bệnh cũ đó cô.
Phấn: Cháu không biết để
vào thăm bà. Cháu xin lỗi.
Bích: Thời buổi bận rộn,
rỗi đâu mà trách với cứ.
Kỳ: (bảo đám đông) Thôi
yêu cầu ai về nhà nấy. Trên thông báo hôm nay hoãn họp.
Ba Thừa: (đứng lên, giọng
hơi bực) Sao lại có thể tùy tiện như thế được!
Bích: (hỏi Kỳ) Ai?
Phấn: (nhanh miệng, nói
đỡ) Thưa bác đây cụ Thừa, mới từ Bắc vào nhập cư vùng
ta.
Bích: (giọng ngọt nhạt)
Dạ không dám chào cụ. Cụ mới về vùng này? Chưa thấy cụ
cho biết cụ đã cần đơn xin chuyển hộ khẩu chưa. (quay
lưng đi thẳng vào ngõ, vừa lúc xe xích lô chở bệnh nhân
có Hồng ngồi cạnh chạy ra, Bích dừng chân nói lớn với
con gái) Tí nữa mẹ hoặc thím Cơ lên thay, về con nhớ lên
máy đọc lại ngay toàn bản chính sách hộ khẩu cho bố!
Sách: (nhẹ níu bàn tay không
đeo găng của Ba Thừa đang run lên, can khéo) Tôi nghe người
ta bảo đời lính leo tới tướng tài chịu nhục lớn ngang
khí phách, phục cụ lắm!
Ba Thừa: (sau cơn ức ngồi
phịch xuống, mắt phải nháy như phải khói) Họ hỗn với
tôi như hỗn với cụ thân sinh ra họ. Nhưng quá nữa tôi sẽ
cho họ biết lành biết dữ.
Phấn: (can góp) Bác tổ
trưởng đang lúc gia đình bối rối, có gì quá lời cụ bỏ
qua cho.
Kỳ: (quát) Việc chó gì
cô phải đi năn nỉ đứa nào? Ðây bảo họp là họp, bảo
hoãn là hoãn, đứa nào chống đối tôi còng đầu.
Phấn: (nhẹ dậm chân) Ông
ơi là ông ơi, toàn khách quen của tôi!
Ba Thừa: (nén giận) Này
cậu công an nhân dân.
Kỳ: Cái gì, anh là ai?
Ba Thừa: Cậu hỏi thế
kể là đúng lúc.
Kỳ: (lùi mấy bước, giơ
hai bàn tay chận lời Ba Thừa, nhìn từ đầu xuống chân, nói
át) Tôi chưa hỏi hết anh chưa được phép trả lời. Con mắt
anh làm sao thế kia?
Ba Thừa: (nhẫn nhịn) Mắt
nào?
Kỳ: Mắt trái!
Ba Thừa: À, mắt giả.
Kỳ: Còn tay anh, tay phải,
sao đeo găng?
Ba Thừa: À, cũng tay giả.
Mà sao...
Kỳ: (cười khinh mạn) Người
ta bảo giàu hai con mắt khó hai bàn tay, cái gì ở anh cũng
giả thì bố ai đoán nổi anh thành phần nào!
(Nhiều tiếng xì xầm. Kỳ quay
lại nạt chung: "Im!")
Ba Thừa: (bừng bừng cơn giận)
Này đồng chí công an, trước mắt tôi yêu cầu đồng chí
chấm dứt gọi tôi một cách xếch mé. Tôi là ai? Là người
tuổi ngang ông nội đồng chí. Ðồng bào đây không ai có
thể nói điều ấy là giả. Tôi thành phần nào? Là tướng.
Thiếu tướng. Cấp trên của đồng chí sẽ không thể nói
điều ấy là giả. Rồi, giờ đồng chí xử lý sao đây?
Kỳ: (hơi chùn bước) Thế
ông là... là tướng? Xin... xin cho biết thiếu tướng công
tác ở đâu?
Ba Thừa: (lấy lại giọng
ôn tồn) Tôi hưu đã lâu lắm, mới từ Bắc vào sống với
gia đình cháu tôi vùng này.
Kỳ: (hồi nhanh sắc mặt)
Ồ... thế ra thủ trưởng là... tướng hưu!
Ba Thừa: Thì đã sao? Hay
đồng chí cho rằng cọp già hoá mèo? Tôi chỉ thay cháu đến
tham gia một phiên họp khu phố, mong góp một lời nói phải.
Kỳ: (đanh giọng) Vâng,
kính chào thiếu tướng. Tôi sẽ xin nghe. Nhưng xin giới thiệu
trước với thiếu tướng đây là chiến trường của tôi,
và tôi là một chiến sĩ còn sống!
(Giữa những tiếng xì xầm gia
tăng, Ba Thừa giận đến ngơ ngác, gã ăn mày tên Kiệt từ
cánh trái lết ra, quát lớn.)
Kiệt: (chỉ mặt Kỳ) Láo!
Láo! Láo! Thằng Kỳ họ nhà tôm kia!
Kỳ: (quay phắt nhìn, kinh
ngạc chen giận dữ, rút súng ngay) A...a... thằng ăn mày! Chán
sống quá rồi phải không. Ðược, hôm nay tao gia ân cho mày,
tao bắn vỡ sọ mày, bắn vỡ sọ bất luận thằng phản động
nào!
Kiệt: (Khoanh hai tay chéo
tới vai, thách thức) Cách mạng gọt một anh hùng tên lửa
là tao tròn như viên bi. Con vện thành phố, bắn thử cho tao
xem tài trúng trật của mày!
Phấn: (chồm tới ghì tay
súng đang run lên của Kỳ, van xin) Em lạy anh, em lạy sống
anh.
Sách: (đột ngột can thiệp)
Anh Kỳ, no mất ngon giận mất khôn, anh nên bình tĩnh.
Kỳ: (cười gằn) Mấy năm
trước tôi có nợ ông ít chữ, để đó, thư thả tôi hoàn!
Ba Thừa: (ngửa mặt than
lớn) Thời nay thầy trò cũng chả ra làm sao nữa! (nhìn quanh)
Thôi kệ cậu ấy, đồng bào cứ để yên xem va dở trò gì.
Tư Diện: Ông giáo khuyên
phải đấy đồng chí. Lời nói không mất tiền mua. Xã hội
ta vốn đã nhuần nhuyễn nền văn hóa liệu lời...
Kỳ: (vẩy loạn mũi súng
về phía Sách và Tư Diện, chận ngang) Mày nữa, thằng phường
tuồng lưỡi dài, mày lên lớp ai đấy? Muốn cấu kết với
bọn phản động chống đối?
Sách và Tư Diện: (giơ tay
đỡ ngực, đồng thanh) Không không, coi chừng cướp cò, xưa
nay chúng tôi rất dị ứng chuyện cấu kết!
(Sách quăng chiếc thùng vung vãi
nhiều món, Tư Diện ném cả ống vố; họ đồng thanh khi la
nhưng không đồng hướng khi chạy. Những người còn lại
không hẹn cùng dồn sang một phía đối diện với Kỳ. Nam
Kha đột ngột chạy vào, đứng giữa, nhìn Kỳ nghiêm giọng.)
Nam Kha: Anh Kỳ, anh bỏ súng
xuống!
Kỳ: A, thêm thằng văn hoá
văn biến kia nữa. Ðâu, mũi nhọn mày đâu, lấy tao coi.
Nam Kha: Mũi nhọn gì?
Kỳ: Thì bút ấy, bút của
mày ấy!
Nam Kha: Hừ, ra thế, nhưng
nó không dùng giết người.
Kỳ: Chỉ để biên thư
chim em gái tao? Tội mày tày đình tao còn để đó, thằng mèo
mả gà đồng!
Nam Kha: (mất bình tĩnh)
Tôi cấm anh không được xúc phạm danh dự chúng tôi.
Kỳ: (chĩa súng vào Nam Kha)
Mày vừa phạm thêm một tội tày đình thứ hai (cười ngạo
mạn) Ối nhà nước ơi, nó dám ngang nhiên giật cả chữ cấm
của tôi!
Hồng: (hớt hải chạy vào,
đứng cạnh Nam Kha, la lớn) Trời ơi anh Kỳ! Anh làm gì thế?
Kỳ: Mày cũng nhảy vào
phe chúng nó?
Phấn: (bước ra phân trần)
Anh đừng nói vậy. Có ai về phe ai đâu.
Kỳ: (tiếp tục nói với
Hồng) Mày về ngay!
Hồng: Anh bỏ súng thì em
về.
Kỳ: (quát) Tao bỏ súng
thì còn gì để khẳng định tao?
(Nam Kha thừa lúc Kỳ chểnh mảng,
xốc tới giật khẩu súng. Mấy phát nổ. Ba Thừa và Phấn
lạc đạn ngã xuống. Nam Kha vớ con dao chặt nước đá chém
Kỳ một nhát trúng tay, rơi súng, máu văng tung toé. Cảnh tượng
náo loạn. Sân khấu vương vãi bàn ghế gãy đổ, quang gánh,
ly tách, lọ dầu xịt, nước hoa, cà vạt, nơ mang nhãn hiệu
nước ngoài.)
Hồng: (đỡ đầu Phấn
lên, ngước nhìn Kỳ, ai oán) Oan gia rồi anh ơi!
Nam Kha: (rờ mạch cổ Ba
Thừa) Ông ơi, ông ơi...
Ba Thừa: (mở mắt nhìn
trân Nam Kha, thều thào) Sao mặt cháu như... như đầy máu...
thế kia?
Nam Kha: (vuốt mặt, nhìn
tay, ngước nhìn Kỳ) Máu mày đấy, thằng khốn kiếp! (mắt
Ba Thừa dại đi, ngoẹo đầu, Nam Kha lại rờ mạch cổ, thốt
vơ lại con dao, chồm lên nói với Kỳ) Mày đòi xem mũi nhọn
của tao phải không, nó đây!
Hồng: (ôm lấy Nam Kha, van
xin) Ít nhất từ đây anh Kỳ em đã trở thành tù nhân của
chính anh ấy. Cớ gì anh đi chia cái cùm một cách vô lý?
Nam Kha: (một tay đặt trên
xác Ba Thừa, một tay vẫn giữ chặt con dao, khóc lớn) Ối
ông ơi, ông là tướng mà sao trên không nhận dưới không
nhìn? Thân thể ông hy sinh cho cách mạng cha giờ cách mạng
con khinh ông là giả. Ông đã sống thật hay sống giả mà
giờ ông phải chết lề đường ông ơi!
Kiệt: (lết đến gần xác
chết, gỡ mũ, thở dài. Kịp thấy khẩu súng lục của Kỳ
rơi ngay cạnh, nhặt lên, nét mặt đầy phẫn thán, chĩa súng
lên trời, nói lớn) Phát súng này để truy niệm thiếu tướng
Ba Thừa, người anh hùng quân đội Nhân Dân, đã tử trận...
từ lâu! (bóp cò liền sáu phát, súng không nổ, quăng súng,
giơ tay chào xác chết, giọng nghiêm chỉnh) Thủ trưởng tha
lỗi. Nó không để dư phát nào cho tôi thành kính truy niệm!
(bò nhanh vào cánh gà bên trái.)
Kỳ: (sau lúc đứng chết
lặng, thấy Bích xuất hiện nơi đầu ngõ, quên vết thương
của mình, quỳ xuống bên Hồng, nâng đầu Phấn lên, rờ
rẫm, hét lớn) Bố ơi cho con một tay, (bảo Hồng) Chạy tìm
xích lô, chạy tìm lão Nhân, nhanh lên! (Hồng quàng bước đi,
Kỳ lẩm bẩm) May quá, chỉ trầy vai, ngất thôi, không chết.
Bích: (đứng nhìn, nghiến
răng) Nhưng mày chết! Ðã bao lần tao nhắc mày mọi hành xử
cách mạng đều phải tiến hành trong đêm tối? Anh hùng giữa
chợ kiểu mày chỉ là túi khôn đứa tự tử. (thở dài) Sự
cố này có bán đứt cơ ngơi, phúc lắm tao đủ mua tấm vé
một chiều cho mày vào trại cải tạo!
(Người từ hướng núi rác và
trong ngõ cùng ùa trở lại sân khấu, kẻ bịt miệng, người
bịt mắt, la hoảng. Màn.)
Màn Ba
(Màn lên nhanh, bày ra quang cảnh
tương tự cuối màn hai. Trời đã chạng vạng. Có ánh đèn
đường. Có tiếng chuông thánh đường và tiếng kẻng báo
lửa vang dội. Ông cháu Ba Thừa và cha con Bích đã biến mất.
Hai gã ăn mày cũng biến mất. Phấn được băng bó tạm một
bên vai, ngồi một mình trước hiệu phở. Suốt chiều ngang
hậu trường lửa cháy bập bùng, khói mù mịt. Người người
tay xách nách mang, bế con cõng cháu, tiếng la hét "cháy! cháy!
cháy!", tiếng con trẻ gào khóc.)
Giọng thứ nhất: Trời ơi
sao đống rác cháy lan lẹ vậy nè!
Giọng thứ hai: Cháy sâu trong ngõ
nữa kìa. Ối má ơi gió lớn!
Giọng thứ ba: Vụ này dám đốt.
Giọng thứ nhất: Quỷ thần đốt
chớ ai đốt! Cháy chi cũng có kiểu cháy đồng khởi vậy
trời!
Giọng thứ hai: Sao không nghe còi
nhà rồng? Bộ còn trả giá tới lui chi nữa đây? Mà Ban Chữa
Lửa Phường nữa, chạy đâu ráo trọi rồi?
Giọng thứ ba: Lan tới đây rồi
bà con ơi! Chạy, chạy trước thôi!
(Hai công an sắc phục hộc tốc
chạy đến trước hiệu phở, hỏi Phấn.)
Công an thứ nhất: Cô là Phấn?
Phấn: Vâng.
Công an thứ nhất:
(hỏi tiếp)
Vết thương cô nặng không? Không ai lo cho cô à?
Phấn: Tôi bị nhẹ thôi, ở vai
đây. Ðã có người đi gọi xe cứu thương.
Công an thứ hai: Chúng tôi trên quận
đã có báo cáo sơ bộ, chỉ đến hiện trường điều tra
bổ túc. Tưởng nổ súng chết người thôi, ai ngờ cháy tợn
quá. Thế... hung thủ và người chết đâu?
Phấn: Tôi đâu biết.
Công an thứ hai: (nói tiếp)
Ừ, cô bị thương. Với lại rối ren thế này. Rồi sẽ làm
việc chi tiết với trên. Nhân tiện hỏi cô vài câu, thành
khẩn trả lời đấy nhé!
Phấn: Nếu tôi biết.
Công an thứ nhất: Cần, cô có thể
nhận diện kẻ xấu bắn cô không?
Phấn: (ngẫm nghĩ) Tôi đang
bận khách, nghe xô xát nhưng súng vừa nổ tôi không biết
gì nữa.
Công an thứ hai: Có một tướng
tử thương, cô biết?
Phấn: Dạ... không.
Công an thứ nhất:
(nói với đồng
sự) Thôi chuyện này kiểm tra sau. Rồi sẽ đâu ra đó.
(quay sang Phấn) Nhân thể cô biết gì vụ cháy không?
Phấn: Không.
Công an thứ hai: Cô có cho là bị
đốt không?
Phấn: Làm sao tôi biết!
Công an thứ nhất: Lúc tôi dựng
xe đàng kia, có người đến báo cáo, bảo là khách của cô,
biết khi chiều cô có phát hiện hai tên ăn mày thui đốt gì
đó trước Ban Chữa Lửa Phường, gần đống rác, đúng?
Phấn: Có, nhưng họ thui một con
chim sẻ ngoài đường mà đám cháy nghe đâu bùng lên từ sâu
trong ngõ.
Công an thứ hai: Thế à? Lại cũng
có người nói đám cháy phát từ bãi rác. Dù sao đó cũng
là chi tiết rất cần ghi nhận.
Phấn: Tuỳ các ông.
Công an thứ hai: (hỏi tiếp)
Thế hai tên ăn mày chạy đâu, cô biết không?
Phấn: Họ cụt cả hai chân!
Công an thứ nhất: Thì cũng phải
bò đi chứ, dễ ngồi yên chịu chết cháy?
Phấn: Nếu họ chưa chết cháy ắt
các ông sẽ tìm ra họ.
Công an thứ nhất:
(ngẫm nghĩ)
Nhớ xem, cô còn gì để khai báo thêm về vụ cháy không?
Phấn: Không, tôi không nhớ gì hết!
Công an thứ hai: (truy) Cô bán
quán tất nhiên dễ tiếp thu tin tức, nhất định cô có thể
nghe và đoán được một ý đồ thù hận xấu xa, thậm chí
một âm mưu đốt nhà cụ thể nào đó.
Phấn: (giọng mệt nhưng sẵng)
Trời ơi lòng người làm sao tôi rõ, còn cháy thì các ông
hỏi lửa ấy!
Công an thứ hai: (hơi bực,
đột ngột) Cô quen thằng Kỳ thế nào?
Phấn: Quen vậy vậy thôi.
Công an thứ hai: (cười hiểm,
tiếp) Tưởng thân đây báo cho một tin.
Phấn: (bối rối) Dạ tôi
thân... rất thân với cô em anh ấy.
Công an thứ nhất:
(lạnh lùng)
Nó cháy rồi!
Phấn: Ối trời ơi chết cháy rồi?
Công an thứ hai: Không hẳn, mà bảo
thế chắc cũng không sai. Sòng bạc là tội tập thể, gỡ
được; chứ giết tướng, ồ, tội cá nhân!
(Có nhiều tiếng nổ phát ra từ
phía sau Ban Chữa Lửa Phường. Ðám cháy càng bùng nhanh, lan
rộng. Hồng mồ hôi mồ kê hớt hải chạy vào, nhìn quanh,
rồi chạy đến bên Phấn. Thấy có người lo cho Phấn, hai
viên công an lỉnh nhanh.)
Hồng: Chú Nhân chưa về tới hả
chị? Trời ơi sao tự nhiên cháy khắp cùng thế này? Mọi
người đâu cả rồi? Anh Kha đem ông cụ chạy đâu rồi? Bố
tôi, anh Kỳ nữa?
Phấn: Có mấy người dìu tôi đến
ngồi tạm đây, bảo đi gọi xe cứu thương.
Hồng: Sao lại nỡ dối trá như
thế! Cháy thế này xe chữa lửa còn chưa thấy đâu, làm sao
có xe cứu thương!
Phấn: Chắc cuống đấy, chứ ai
mà nỡ dối.
Hồng: (vuốt mồ hôi) Chị
rán đợi tôi một chút, tôi chạy vào trong xem sao (chạy
nhanh vào ngõ, một lát chạy ra, mếu máo) Tiêu hết rồi
chị Phấn ơi. Nhà tôi, cả mấy căn cho thuê. Mẹ tôi cũng
không rõ chạy đâu nữa. (nhìn ngọn lửa bên trái sân khấu)
Trời ơi điệu này tới lượt hiệu phở mất. (nhìn Phấn
ái ngại) Giờ chị tính sao?
Phấn: Là sao ạ?
Hồng: Tôi dìu chị đi, chị đi
nổi không?
Phấn: Trời ơi hơi nóng đã rát
cả mặt. Phải nổi chứ.
(Hồng dìu Phấn đứng lên. Cả
hai dợm bước theo đám đông.)
Hồng: Chịu khó tí, tôi dẫn chị
đến nhà người bạn chỗ đường sắt, rồi liệu tìm y tá.
Khu chị cầm bằng cũng đã ra tro. Chị mệt lắm không?
Phấn: Dạ không.
Hồng: Trời ơi là trời ơi. (khóc)
Ai ngờ anh tôi nhẫn tâm đến thế! May chị không mất máu
nhiều.
Phấn: (đắn đo) Anh ấy thế
nào?
Hồng: (nhẹ ghì Phấn đứng lại,
khóc oà) Tôi nào có biết! Mà còn thế nào nữa hả chị?
Một tay anh ấy đã huỷ sạch sành sanh. (quẹt nước mắt)
Cả một hy vọng, cả một giấc mơ, (chỉ lửa)
giờ
đến cơ ngơi!
(Lặng lâu)
Phấn: (nắm tay Hồng)
Thôi,
mình đi chị. Mình tìm chỗ nghỉ. Qua đêm biết đâu rồi
mình sẽ khác.
Hồng: Khác là khác thế nào, hả
chị?
Phấn: Là có thể từ mai mình sẽ
thấy nhẹ nhõm.
(nói xa xôi) Mình sẽ thoát được một
cảm giác ghê sợ, một cảm giác mọi sự dối lòng đều
không thể khoả lấp, một cảm giác sống như chỉ để chờ
một tai nạn, không, một biến cố để thanh tẩy mới phải,
một biến cố ắt xảy ra và vô phương tránh né!
Hồng: (ngơ ngác) Chị nói
gì thế? Tôi... tôi không hiểu.
Phấn: Mong có lúc chị sẽ hiểu
(giục) Mà nóng quá rồi, mình phải đi thôi.
Hồng: (ngoái nhìn ngọn lửa)
Nhưng...
Phấn: Nhưng sao ạ?
Hồng: Chị biết gì về ngọn lửa
kia không?
Phấn: (không nhìn lại, nói khẽ)
Có chăng chỉ biết nó không lưỡng lự.
Hồng: Sao nó lây lan nhanh thế?
Phấn: Ðiều ấy thì tôi không biết.
(nghĩ lâu) Thật đấy. Mà có ai đoán được, biết được
quyền của lửa bao giờ!
(Hai cô gái cùng dìu nhau đi giữa
dòng người chạy ngược xuôi. Lộn trong tiếng kêu la, họng
loa từ khu phố khác vẳng đến một hành khúc có nội dung
mâu thuẫn với hiện cảnh. Nhiều đèn cực sáng cùng rọi
vào sân khấu màu đỏ hồng, đỏ hồng được điều chỉnh
từ từ biến thành màu đỏ lửa, hoàn toàn. Thình lình một
tiếng nổ cực lớn. Mọi âm thanh khác câm. Sân khấu tối
như mực. Màn hạ .)
Ðại Tây Dương,
Thu 97
|